TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT – TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 09 tháng 02 năm 2018 tại Hội trường xét xử A - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2018/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/HSST ngày 30/01/2018, đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Toàn T - sinh ngày 27/08/1989 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: 46/B2, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Chứng minh nhân dân số: 272096610, cấp ngày 26/01/2007, nơi cấp: Công an Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Đình Q, sinh năm: 1958 và bà: Nguyễn Thị Phương L, sinh năm:1965; có vợ: Nguyễn Thảo Phương A, sinh năm 1989; tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 13/12/2017. (có mặt)
* Ngườ i có qu yền lợ i, n ghĩa vụ liê n quan:
Chị Nguyễn Thảo Phương A sinh năm: 1989
Nơi cư trú: 46/B2, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (có mặt)
* Ngườ i làm c hứng:
1/ Anh Trần Hoàng Vũ T sinh năm: 1980
Nơi cư trú: 110E/C1, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
2/ Anh Phạm Nguyễn Ngọc P sinh năm: 1985
Nơi cư trú: 510/2, ấp G, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
3/ Anh Lê Hùng Quốc T sinh năm: 1985
Nơi cư trú: 95/A2, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
4/ Anh Vũ Mạnh C sinh năm: 1987
Nơi cư trú: 232/1, ấp G, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
5/ Anh Võ Đình P sinh năm: 1985
Nơi cư trú: 68/B2, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
6/ Anh Vũ Đình B sinh năm: 1993
Nơi cư trú: 268/B, ấp P, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
7/ Anh Nguyễn Ngọc K sinh năm: 1998
Nơi cư trú: Ấp V, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
8/ Anh Vũ Thanh T sinh năm: 1988
Nơi cư trú: 143/3, ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ ngày 23/8/2015, tại vườn chuối, thuộc ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai, Công an huyện Thống Nhất phát hiện, bắt giữ quả tang Trần Hoàng Vũ T, Lê Hùng Quốc T, Vũ Thanh T, Nguyễn Ngọc K, Phạm Nguyễn Ngọc P tổ chức đánh bạc và đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bạc xóc đĩa được thua bằng tiền và thu giữ tang vật gồm: 04 vị đánh bạc có hình tròn bằng giấy; 01 đĩa sành đã bị bể; 01 tấm bạt; 01 bộ bài tây loại 52 lá đã qua sử dụng; số tiền thu trên chiếu bạc là 3.750.000 đồng (Ba triệu bảy trăm năm mươi ngàn đồng); thu giữ tại địa điểm đánh bạc 08 xe mô tô các loại gồm: các xe mô tô biển số 60N7-4841, 51S4-1640, 60K8-2481, 60B7-289.77, 60V8-1811, 60N8-2120, 60T3-5778 và 01 xe mô tô không gắn biển số; Trần Hoàng Vũ T tự nguyện giao nộp số tiền 1.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6; Lê Hùng Quốc T tự nguyện giao nộp số tiền 2.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280; Phạm Nguyễn Ngọc P tự nguyện giao nộp số tiền 2.100.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia Xpress Music; Vũ Thanh T tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Samsung - Viettel; Nguyễn Ngọc K tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280.
Quá trình điều tra xác định: Vào tháng 5/2015, Trần Hoàng Vũ T, Phạm Nguyễn Ngọc P biết được ở các ấp Đ1, Đ2 và Đ3 thuộc xã G, huyện T là khu vực trồng các loại cây điều, chuối, có địa bàn hiểm trở, vắng người qua lại nên T, P đã nhiều lần đứng ra tổ chức cho các con bạc đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi xóc đĩa được thua bằng tiền. Trần Hoàng Vũ T, Phạm Nguyễn Ngọc P thuê Vũ Hoàng S, Trần A T, Lê Hùng Quốc T, Vũ Đình B, Vũ Mạnh C, Võ Đình P, Nguyễn Đại D, Ngô Thành C, Ngô Toàn T, Nguyễn Trường A, Lê Minh T, Nguyễn Ngọc K, Vũ Thanh T và đối tượng tên L đứng ra giúp T, P tổ chức cho các con bạc đánh bạc trái phép dưới hình thức chơi xóc đĩa được thua bằng tiền và được T, P trả tiền công cho S, P, C, C, B, T, K, A mỗi người từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng/ngày; T và D từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng/ngày. Riêng Phạm Nguyễn Ngọc P và Trần A T được T chia tiền theo tỷ lệ T được 3,5 phần, P được 3,5 phần và T được 3 phần/tổng số tiền xâu thu được sau khi đã trả tiền công cho đồng bọn. Trần Hoàng Vũ T, Phạm Nguyễn Ngọc Phước phân công nhiệm vụ của từng người như sau: Phạm Nguyễn Ngọc P, Trần A T có nhiệm vụ trực tiếp quản lý, điều hành sòng bạc, thu và giữ tiền xâu; Lê Hùng Quốc T, Nguyễn Đại D có nhiệm vụ theo dõi, quản lý việc thu tiền xâu; Võ Đình P, Vũ Hoàng S, Vũ Mạnh C, Ngô Thành C có nhiệm vụ đứng ra thu chi tiền thắng thua bạc cho người làm cái và thu tiền xâu giao cho T và D; Vũ Đình B có nhiệm vụ chuẩn bị công cụ đánh bạc; Ngô Toàn T, Nguyễn Trường A, Lê Minh T, Nguyễn Ngọc K, Vũ Thanh T và đối tượng tên L (không xác định được họ tên, địa chỉ thường trú) có nhiệm vụ cảnh giới, đưa đón các con bạc từ Quốc lộ 20 đến sòng bạc và ngược lại. Trong lúc các con bạc đánh bạc nếu 03 con vị có mặt màu đen thì người thắng bạc số tiền dưới 500.000 đồng phải trả cho Trần Hoàng Vũ T cùng đồng bọn 10%/số tiền thắng bạc, trường hợp người thắng bạc số tiền trên 500.000 đồng phải trả cho Trần Hoàng Vũ T cùng đồng bọn 05%/số tiền thắng bạc.
Vào trưa ngày 23/8/2015, Ngô Toàn T cùng với Trần Hoàng Vũ T, Phạm Nguyễn Ngọc P, Trần A T, Vũ Hoàng S, Lê Hùng Quốc T, Vũ Đình B, Vũ Mạnh C, Võ Đình P, Nguyễn Đại D, Ngô Thành C, Nguyễn Trường A, Lê Minh T, Nguyễn Ngọc K, Vũ Thanh T đến vườn chuối, thuộc ấp Đ, xã G, huyện T. Tại đây, theo sự phân công từ trước của Trần Hoàng Vũ T và Phạm Nguyễn Ngọc P. Vũ Hoàng S, Lê Hùng Quốc T, Vũ Đình B, Vũ Mạnh C, Võ Đình P, Nguyễn Đại D, Ngô Thành C đã chuẩn bị 01 chén, 01 đĩa sành, trải bạt xuống nền đất; Ngô Toàn T, Nguyễn Trường A, Lê Minh T, Nguyễn Ngọc K, Vũ Thanh T và đối tượng tên L lần lượt chở các con bạc từ quốc lộ 20 vào sòng bạc; Lê Hùng Quốc T và Nguyễn Đại D đứng ra theo dõi, quản lý việc thu tiền xâu; Vũ Hoàng S, Võ Đình P, Vũ Mạnh C, Ngô Thành C có nhiệm vụ đứng ra thu chi tiền thắng thua bạc cho người làm cái và thu tiền xâu giao cho T và D. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày các con bạc gồm: Vũ Đình T, Nguyễn Kim C, Phạm Nguyễn Ngọc P, Nguyễn Văn T, Phạm Thị M, Đỗ Thị Phương L, Nguyễn Công L, Lê Thị H, Nguyễn Thị Ngọc A, Lại Thị H, Phan Thị T và khoảng 10 đối tượng khác chưa xác định được họ tên lần lượt đi xe mô tô hoặc được T, A, T, K, T và L chở từ Quốc lộ 20 đi vào sòng bạc. Sau đó, chúng thỏa thuận mức cá cược thắng thua bạc từ 50.000 đồng (Năm mươi ngàn đồng) đến 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng)/ván bạc/người. Nếu 04 con vị có mặt màu đen hoặc 04 con vị có mặt màu trắng hoặc 02 con vị có mặt màu đen và hai con vị có mặt màu trắng là mặt chẵn. Ngược lại, 03 con vị có mặt màu trắng và 01 con vị có mặt màu đen hoặc 03 con vị có mặt màu đen và 01 con vị có mặt màu trắng là mặt lẽ. Theo quy ước, người nào đặt tiền ở mặt lẽ và kết quả con vị là mặt lẽ thì thắng bạc với người làm cái số tiền cá cược đánh bạc tương ứng. Ngược lại, con vị là mặt chẵn thì người làm cái thắng bạc số tiền các con bạc đã đặt cược trước đó, trường hợp 03 con vị có mặt màu đen thì người thắng bạc phải trả cho Trần Hoàng Vũ T cùng đồng bọn từ 5% đến 10%/số tiền thắng bạc. Ngoài ra quá trình đánh bạc thì các con bạc có thể cá cược riêng với nhau. Sau khi thống nhất cách thức thắng thua bạc, Vũ Đình T làm cái và cùng với Nguyễn Kim C, Phạm Nguyễn Ngọc P, Nguyễn Văn T, Nguyễn Công L, Phạm Thị M, Đỗ Thị Phương L, Lê Thị H, Nguyễn Thị Ngọc A, Lại Thị H, Phan Thị T và khoảng 10 đối tượng khác chưa xác định được họ tên đánh bạc cho đến 15 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Thống Nhất phát hiện, bắt giữ quả tang Trần Hoàng Vũ T, Lê Hùng Quốc T, Vũ Thanh T, Nguyễn Ngọc K, Phạm Nguyễn Ngọc P và thu giữ được 01 số vật chứng. Còn Vũ Hoàng S, Phạm Nguyễn Ngọc P, Trần A T, Vũ Đình B, Vũ Mạnh C, Võ Đình P, Nguyễn Đại D, Ngô Thành C, Ngô Toàn T, Nguyễn Trường A, Lê Minh T, Vũ Đình T, Nguyễn Kim C, Nguyễn Văn T, Phạm Thị M, Đỗ Thị Phương L, Nguyễn Công L, Lê Thị H, Nguyễn Thị Ngọc A, Lại Thị H, Phan Thị T và khoảng 10 đối tượng khác đã chạy trốn thoát. Ngày 17 và 23/9/2015 Lê Thị H và Vũ Đình B bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất bắt khẩn cấp; các ngày 16 và 20/9/2015, ngày 03, 13 và 15/10/2015; ngày 02, 03, 09, 26/11/2015; các ngày 07, 15/12/2015, ngày 22/02/2016, ngày 09/3/2016 các đối tượng P, T, B, C, P, D, T, C, T, C, T, M, L, A, H, T đến Công an huyện Thống Nhất đầu thú; Nguyễn Công L, Vũ Hoàng S, Nguyễn Trường A bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thống Nhất bắt theo Quyết định truy nã vào các ngày 27/3/2016, 10/10/2016, 02/3/2017. Hành vi của Trần Hoàng Vũ T, Phạm Nguyễn Ngọc P, Trần A T, Vũ Hoãng S, Lê Hùng Quốc T, Vũ Đình B, Ngô Thành C, Nguyễn Trường A, Vũ Mạnh C, Võ Đình P, Nguyễn Đại D, Lê Minh T, Nguyễn Ngọc K, Vũ Thanh T, Vũ Đình T, Nguyễn Kim C, Phạm Nguyễn Ngọc P, Nguyễn Văn T, Phạm Thị M, Đỗ Thị Phương L, Nguyễn Công L, Phan Thị T, Lê Thị H, Nguyễn Thị Ngọc A, Lại Thị H đã bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất xét xử tại các Bản án số 55/2016/HSST ngày 09/8/2016, số 82/2016/HSST ngày 29/11/2016 và số 216/2017/HSST ngày 28/8/2017 (án phúc thẩm). Đối với bị cáo Ngô Toàn T bỏ trốn cho đến ngày 13/12/2017 bị Công an huyện Thống Nhất bắt truy nã.
Quá trình điều tra xác định: Ngô Toàn T có nhiệm vụ cảnh giới, đưa đón các con bạc từ Quốc lộ 20 đến sòng bạc và ngược lại. Tổng số lần Ngô Toàn T cùng đồng bọn thực hiện hành vi phạm tội là 20 lần và được Trần Hoàng Vũ T trả tiền công là 2.500.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo Ngô Toàn T cùng đồng bọn thu lợi bất chính ngày 23/8/2015 là 2.200.000 đồng và tổng số tiền bị cáo cùng đồng bọn thu lợi bất chính từ những lần tổ chức đánh bạc trái phép trước ngày 23/8/2015 là 106.950.000 đồng.
Bản cáo trạng số 07/CT.VKS-HS ngày 19-01-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Ngô Toàn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Áp dụng khoản 2 Điều 249, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 45, Điều 20, Điều 53, Điều 60 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ngô Toàn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm.
+ Sung Công quỹ số tiền thu lợi bất chính là 2.500.000đ.
* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết mình vi phạm pháp luật, đã ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố, xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Ngô Toàn T đã phạm vào tội: “Tổ chức đánh bạc” Theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 19/01/2018 truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét vai trò của bị cáo trong vụ án: Ngô Toàn T được phân công cảnh giới. Khi phát hiện lực lượng Công an thì cho T biết và đưa, đón người tham gia đánh bạc từ quốc lộ 20 vào sòng bạc và ngược lại, bị cáo đã tham gia khoảng 20 lần. Tổng số tiền thu lợi bất chính là: 106.950.000đ, trong đó T được trả tiền công 2.500.000đ.
Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng. Đánh bạc trái phép là tước đoạt tài sản của nhau, tệ nạn cờ bạc có thể là nguyên nhân gây ra tội phạm khác. Vì lòng tham bị cáo đã tham gia vào tổ chức đánh bạc trái phép, vi phạm điều cấm của pháp luật. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[2] Xét nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức, có vai trò thứ yếu, số tiền thu lợi không lớn, có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 20, Điều 53 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên cho bị cáo được hưởng án treo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[3] Về biện pháp tư pháp: Vật chứng của vụ án đã được Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất giải quyết tịch thu tiêu hủy và nộp ngân sách Nhà nước tại bản án số 55/2016/HSST ngày 09/8/2016 nên không xem xét.
- 01 xe mô tô không nhớ biển số của Ngô Toàn T sử dụng làm phương tiện phạm tội, Ngô Toàn T đã bán chiếc xe này cho 01 người đàn ông không biết rõ họ tên ở thành phố Biên Hòa vào tháng 10/2016 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không thu giữ được đối với chiếc xe này, đề nghị tiếp tục xác minh xử lý sau.
- Đối với số tiền 2.500.000 đồng bị cáo Ngô Toàn T thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội. Ngày 18/01/2019, chị Nguyễn Thảo Phương A (sinh năm 1989, trú tại số 42/2B, ấp Đ, xã G, huyện T, là vợ của bị cáo Ngô Toàn T) đã tự nguyện đến Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất giao nộp số tiền 2.500.000 đồng, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 249; điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46, Điều 45, Điều 20, Điều 53, Điều 60 - Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Ngô Toàn T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”
Xử phạt : Bị cáo 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao cho UBND xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai quản lý, giám sát , giáo dục bị cáo Ngô Toàn Thắng trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên trả tự do cho bị cáo Ngô Toàn T tại phiên tòa ngay sau khi tuyên án, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
* Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.500.000đ bị cáo Ngô Toàn T thu lợi bất chính (Theo biên lai thu tiền số 002311 ngày 19/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất)
* Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án
Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
Báo cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 14/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về