Bản án 14/2018/HS-ST ngày 08/11/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 08/11/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 14/2018/TLST-HS ngày 05/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 10/2018/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Võ Thị Nhã T; sinh ngày 29/10/1977, tại tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Tổ X, phường P, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ S và bà Đỗ Thị Yến C; Chồng: Chưa có và có ba con lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2018 cho đến nay; bị cáo đang giam; Có mặt tại phiên tòa;

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Thị Nhã T: Bà Phan Thị Bích X, Luật sư Văn phòng Luật sư Phan Thị Bích X, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi, là người bào chữa theo luật định cho bị cáo; Có mặt tại phiên tòa;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Hoàng Như V, sinh ngày 16/9/1976; trú tại: Tổ X, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Vắng mặt tại phiên tòa;

Người làm chứng:

1. Ông Võ S, sinh ngày 20/12/1955; trú tại: Tổ X, phường P, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Vắng mặt tại phiên tòa;

2. Ông Nguyễn Duy L, sinh ngày 08/9/1983; trú tại: Tổ X, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 40 phút ngày 11/5/2018, tại ga Quảng Ngãi, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang Võ Thị Nhã T có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ ba túi ni lông màu trắng mà một số đồ vật khác.

Khi bị bắt, Võ Thị Nhã T khai nhận: Vào khoảng 4 giờ ngày 11/5/2018, T đến ga tàu tại thành phố Hồ Chí Minh để về Quảng Ngãi thì có gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đến nói chuyện và nhờ T mang gói hàng về Quảng Ngãi và xin số điện thoại của T để liên lạc nhận lại gói hàng. T đồng ý cho số điện thoại và nhận gói hàng là một túi ni lông màu vàng bên trong có một chiếc hộp màu nâu. Sau đó, T lên tàu về lại Quảng Ngãi mang theo hai túi ni lông thì bị Công an bắt giữ.

Đến ngày 22/5/2018, Võ Thị Nhã T thay đổi lời khai, T khai gói hàng làcủa đối tượng tên V thường được gọi là “V Chùa”. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 09/5/2018, T đi xe khách P vào thành phố Hồ Chí Minh thuê phòng khách sạn để nghỉ (tên, địa chỉ khách sạn T không còn nhớ nữa).

Đến khoảng 21 giờ ngày 10/5/2018, Nguyễn Hoàng Như V điện thoại cho T (T không nhớ số điện thoại của V) hẹn V đến quán T. T đến gặp V và sau đó T (bạn của V) đến chở V và T về nhà của T (T không nhớ địa chỉ nhà T). Tại nhà T, V gặp một người thanh niên không biết tên, tại đây V có nhờ T mang gói hàng (gói cao) về cho V, V có cho T số điện thoại, T lưu trong máy điện thoại di động của T là C2. V nói khi về tới Quảng Ngãi điện thoại số này thì có người đến nhận gói hàng. Sau đó, T chở T về lại khách sạn để nghỉ ngơi. Khoảng 3 giờ 30 phút ngày 11/5/2018, người thanh niên ở nhà T đến chở T ra ga tàu thành phố Hồ Chí Minh và đưa gói hàng là túi ni lông màu vàng bên trong chứa hộp giấy màu nâu nói là của V gửi, T nhận gói hàng rồi lên tàu về Quảng Ngãi.

Trên tàu V xin một túi ni lông màu trắng hồng, bỏ túi ni lông màu vàng chứa hộp giấy màu nâu vào bên trong và cột lại, T mua thêm túi bánh tráng đựng trong túi ni lông màu vàng. Đến ga Quảng Ngãi, T cầm 3 túi ni lông (01 túi màu đen, 01 túi màu trắng hồng và 01 túi màu vàng) xuống ga Quảng Ngãi thì bị bắt. T mở túi ni lông màu trắng hồng bên trong chứa túi ni lông màu vàng và hộp giấy màu nâu ra thì có 02 túi ni lông màu trắng bên trong chứa những hạt tinh thể màu trắng, 01 túi ni lông màu trắng bên trong chứa 05 viên nén màu hồng.

Tại bản kết luận giám định số 387 ngày 14/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:

- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì thứ nhất có khối lượng là 331,8 gam, có Methamphetamine, hàm lượng Methamphetamine là65,4%. Do đó khối lượng Methamphetamine tinh chất có trong 331,8 gam mẫu là 216,99 gam.

- Chất rắn dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong phong bì thứ hai có khối lượng là 19,9 gam, có Ketamine, hàm lượng Ketamine là 61,3%. Do đó khối lượng Ketamine tinh chất có trong 19,9 gam mẫu là 12,19 gam.

- 05 viên nén màu hồng bên trong phong bì thứ ba có khối lượng là 2,62 gam, có Methamphetamine, hàm lượng Methamphetamine là 0,2%. Do đó khối lượng Methamphetamine tinh chất có trong 2,62 gam mẫu là 0,005 gam. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 67, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ; Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại bản Cáo trạng số 1075/CT-VKS ngày 05/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã truy tố bị cáo Võ Thị Nhã T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi vẫn giữnguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Về phần hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị Nhã T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 250; điểm n khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Nhã T 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 12/5/2018.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật – hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi số 387/PC54 (GĐ-2018); 01 (một) hộp giấy màu nâu có chứ Water Pipe; 01 (một) túi ni lông màu trắng hồng; 01 (một) túi ni lông màu vàng.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu hồng model 105, Type: Rm-908, Imei: 357825/06/305538/7; 01 (một) sim Nano Mobifone được bỏ vào phong bì dán kín có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.

- Chuyển 01 (một) USB màu đỏ, nhãn hiệu Kingston, có dung lượng 8GB được niêm phong có chữ ký giám định viên và đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi đến Tòa án để tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Luận cứ bào chữa của Luật sư Phan Thị Bích X cho bị cáo Võ Thị Nhã T: Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Võ Thị Nhã T về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, xét mức hình phạt Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đề nghị đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Vì, bị cáo phạm tội khi đang có thai; tại phiên tòa bị cáo có thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn; bị cáo không hề có ý định vận chuyển ma túy mà do bị Nguyễn Hoàng Như V nói dối đây là gói cao nên bị cáo tin tưởng cầm về giúp; số lượng ma túy chỉ mới vượt mức khởi điểm. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 được áp dụng cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo ở dưới mức thấp nhất của khung hình phạt với mức án 18 năm tù cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

Bị cáo Võ Thị Nhã T nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ để về lo cho con cái, gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

 [2] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; người chứng kiến đã được triệu tập nhưng đều vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng. Xét thấy, việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quyết định xét xử vắng mặt những người này.

 [3] Vào lúc 04 giờ ngày 11/5/2018, Võ Thị Nhã T mang theo ba túi ni lông đến ga tàu thành phố Hồ Chí Minh để về Quảng Ngãi. Đến 21 giờ 40 phút cùng ngày, bị cáo T đến ga Quảng Ngãi thì bị Công an bắt giữ. Qua khám xét thu giữ 01 túi ni lông màu trắng hồng, bên trong túi ni lông này có 03 túi ni lông, trong đó 02 túi ni lông màu trắng bên trong chứa những hạt tinh thể màu trắng và 01 túi ni lông màu trắng bên trong chứa 05 viên nén màu hồng. Theo kết luận giám định số 387/KLGĐ-PC54 ngày 14/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 02 túi ni lông màu trắng và 05 viên nén màu hồng có khối lượng Methamphetamine tinh chất là 216,995 gam, khối lượng Katemine tinh chất là 12,19 gam. Methamphetamine và Katemine là chất ma túy nằm trong mục II – số thứ tự 67 và mục III – số thứ tự 35 quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định về ban hành danh mục chất ma túy và tiền chất.

Khi bị bắt bị cáo Võ Thị Nhã T khai: Vào khoảng 04 giờ ngày 11/5/2018, T đến ga tàu thành phố Hồ Chí Minh để đi tàu về Quảng Ngãi thì có một người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi đến làm quen với T. Người đàn ông giới thiệu quê Quảng Ngãi lập nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh, T hỏi người đàn ông có chuyến tàu nào về Quảng Ngãi không, người đàn ông trả lời có chuyến tàu chạy lúc 06 giờ đến 20 giờ thì đến ga Quảng Ngãi. T nói là không có chứng minh nhân dân nên không mua được vé tàu, người đàn ông nói không sao để nhờ mấy người trên tàu cho T về Quảng Ngãi. Sau đó, người đàn ông đưa cho T một túi ni lông màu vàng bên trong có một chiếc hộp màu nâu nhờ bị cáo mang về Quảng Ngãi và xin số điện thoại của bị cáo để khi đến ga Quảng Ngãi thì liên lạc nhận lại gói hàng. Khi về đến ga Quảng Ngãi thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra bắt quả tang.

Khi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khởi tố vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Võ Thị Nhã T thay đổi lời khai, T khai: Ngày 10/5/2018, bị cáo vào thành phố Hồ Chí Minh chơi và thăm con nhưng con của bị cáo bận học không gặp được. Nên bị cáo đi xe ôm đến khách sạn để nghỉ ngơi (bị cáo không nhớ tên, địa chỉ khách sạn). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Hoàng Như V (tên gọi khác là V Chùa) điện thoại cho bị cáo đến quán T uống cà phê. Đúng hẹn, bị cáo đến quán T gặp V, ngồi chơi một lúc thì có một người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) đến chở V và bị cáo đến nhà T chơi (T không nhớ địa chỉ nhà T). Tại nhà T, T gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ; V có nhờ bị cáo mang gói hàng (gói cao) về Quảng Ngãi giúp V, khi về đến ga Quảng Ngãi bị cáo gọi điện thoại đến thuê bao số 0935.377.XXX (T lưu tên trong danh bạ điện thoại là C2) ra lấy thì T đồng ý. Sau đó, T chở bị cáo về lại khách sạn để nghỉ ngơi. Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 11/5/2018, bị cáo đang ởkhách sạn thì người thanh niên bị cáo không biết tên gặp ở nhà T đến chở bị cáo ra ga tàu thành phố Hồ Chí Minh để về Quảng Ngãi. Khi đến ga tàu thành phố Hồ Chí Minh thì người thanh niên cầm một túi ni lông màu vàng bên trong chứa hộp giấy màu nâu đưa cho bị cáo để bị cáo cầm về Quảng Ngãi. Bị cáo biết gói hàng đó là của V, nên bị cáo cầm gói hàng đi lên tàu. Trên tàu bị cáo xin một túi ni lông màu trắng hồng bỏ túi ni lông màu vàng chứa hộp giấy màu nâu vào và cột lại cho khỏi rớt. Khi tàu dừng lại ga Quảng Ngãi, bị cáo cầm 03 túi ni lông xuống thì bị bắt quả tang. Tại ga Quảng Ngãi, T mở túi ni lông màu trắng hồng bên trong chứa túi ni lông màu vàng và hộp giấy màu nâu thì có 02 túi ni lông màu trắng bên trong chứa những hạt tinh thể màu trắng, 01 túi ni lông màu trắng bên trong chứa 05 viên nén màu hồng.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Hoàng Như V khai không gặp Võ Thị Nhã T vào ngày 10/5/2018, không nhờ T vận chuyển gói hàng nào từ thành phố Hồ Chí Minh về thành phố Q. Cơ quan điều tra đã cho Võ Thị Nhã T nhận dạng và đối chất với V, quá trình đối chất giữa V và T không có cơ sở xác định gói ma túy T vận chuyển từ thành phố Hồ Chí Minh về Quảng Ngãi là của Nguyễn Hoàng Như V. Do không có căn cứ để chứng minh số ma túy trên là của Nguyễn Hoàng Như V và tại phiên tòa bị cáo cũng không đưa ra tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh số ma túy này là của V đưa cho bị cáo nhờ vận chuyển về Quảng Ngãi và giao cho một người tên C2, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về việc vận chuyển trái phép chất ma túy đối với khối lượng ma túy trên. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Võ Thị Nhã T về tội  “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

 [4] Khi thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, Võ Thị Nhã T có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo nhận thức được hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo Võ Thị Nhã T là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung loại tội phạm này.

 [5] Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội khi đang có thai là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm n, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 được áp dụng cho bị cáo.

 [6] Quá trình điều tra, không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên T, người đàn ông ở nhà T, chủ sở hữu của số điện thoại 0935.377.XXX. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi không có căn cứ xử lý những đối tượng trên.

 [7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 phong bì chứa số ma túy sau giám định hoàn lại có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi ghi số 387/PC54 (GĐ-2018). Đây là vật chứng thuộc loại cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 hộp giấy màu nâu có chứ Water Pipe, 01 túi ni lông màu trắng hồng, 01 túi ni lông màu vàng. Đây là những vật chứng Võ Thị Nhã T sử dụng để làm công cụ, phương tiện phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu hồng model 105, Type: Rm-908, Imei: 357825/06/305538/7; 01 sim Nano Mobifone được bỏ vào phong bì dán kín có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi. Đây là phương tiện Võ Thị Nhã T dùng để liên lạc vận chuyển trái phép chất ma túy nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 USB màu đỏ, nhãn hiệu Kingston, có dung lượng 8GB được niêm phong có chữ ký giám định viên và đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi: Nội dung điện tử trong USB có chứa dữ liệu hình ảnh camera bị cáo Võ Thị Nhã T thực hiện hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Xét đây là tài liệu, chứng cứ nên Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi chuyển vật chứng trên cho Tòa án để lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

 [8] Về án phí: Bị cáo Võ Thị Nhã T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thị Nhã T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.Áp dụng: điểm h khoản 4 Điều 250; điểm n, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Thị Nhã T 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 12/5/2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật – hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi số 387/PC54 (GĐ-2018); 01 (một) hộp giấy màu nâu có chứ Water Pipe; 01 (một) túi ni lông màu trắng hồng; 01 (một) túi ni lông màu vàng.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu hồng model 105, Type: Rm-908, Imei: 357825/06/XXXX; 01 (một) sim Nano Mobifone được bỏ vào phong bì dán kín có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.

- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi chuyển giao 01 (một) USB màu đỏ, nhãn hiệu Kingston, có dung lượng 8GB được niêm phong có chữ ký giám định viên và đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

 (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/11/2018 giữa Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi)

3. Về án phí:

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Bị cáo Võ Thị Nhã T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phíhình sự sơ thẩm.

4. Kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

445
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 08/11/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về