TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 14/2018/DSPT NGÀY 04/01/2018 VỀ ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NHÂN PHẨM, DANH DỰ
Ngày 26 tháng 12 năm 2017, và ngày 04 tháng 01 năm 2018, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 508/2017/TLPT-DS ngày 20/10/2017 về việc “Đòi bồi thường thiệt hại về nhân phẩm danh dự””.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 119/2017/DSST ngày 28/07/2017 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2677/2017/QĐPT-DS ngày 15/ 11/2017 và quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 6899/2017/QĐPT-DS ngày 12/12/2017 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lâm Văn Q, sinh năm 1957
Địa chỉ: 793/60B đường M, khu phố 4, phường N, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh
Bị đơn: Ông Võ Văn C, sinh năm 1959
Tạm trú: 493/62/5 KP4, phường A, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.
Thường trú: 431/22 B, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh
NHẬN THẤY
Trong đơn khởi kiện ngày 08/12/2016, các đơn khởi kiện bổ sung và bản tự khai ngày 08/3/2017, biên bản kiểm tra chứng cứ ngày 04/5/2017, biên bản hòa giải ngày 04/5/2017, biên bản đối chất ngày 11/5/2017, nguyên đơn ông Lâm Văn Q trình bày:
Nguyên vào lúc 15h00 ngày 15/11/2016 tại Tòa án nhân dân huyện A, trong phòng số 11 lầu 1 (phòng của thẩm phán Bùi Trọng N). Trong khi tiến hành đối chất trong vụ kiện khác, thẩm phán N đang yêu cầu ông và ông C ký biên bản đối chất thì bất ngờ ông C nhục mạ ông và đánh ông, ông đã bỏ chạy ra hành lang và lên phòng lãnh đạo chánh án ở lầu 2 để yêu cầu giải quyết nhưng các phòng lãnh đạo đều không có người, ông đi xuống lầu 1 thì ông C tiếp tục đánh ông và nhục mạ ông, ông liền la lớn và bỏ chạy thì bảo vệ tòa án đến can thiệp, ông đã ghi âm được toàn bộ quá trình ông C nhục mạ ông.Tại tòa hôm nay ông yêu cầu ông C phải công khai xin lỗi ông tại phiên tòa cam kết không được tái phạm và bồi thường cho ông tiền tổn thất tinh thần là 1.000.000 (một triệu đồng)
Tại bản tự khai ngày 25/4/2017, biên bản hòa giải ngày 04/5/2017, biên bản đối chất ngày 11/5/2017 cũng như tại phiên tòa hôm nay ông Võ Văn C có ông Vũ Hữu E làm đại diện trình bày:
Tại phiên đối chất ngày 15/11/2016 ở phòng Thẩm phán Bùi Trọng N giữa ông Lâm Văn Q và ông Võ Văn C không hề có chuyện ông C nhục mạ ông Q, cũng không có chuyện ông C đánh ông Q, chỉ có việc tại hành lang tòa án lầu 1, ông C có nói lớn tiếng đây là thói quen của ông C thường nói to, không hề có chuyện ông C đánh ông Q, nay ông Q khởi kiện yêu cầu ông C xin lỗi công khai và bồi thường 1.000.000 (một triệu đồng) ông đại diện ông C không đồng ý.
Tại bản án sơ thẩm số 119/2017/DSST ngày 28/7/2017 của tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điều 35, Điều 71, Điều 72, Điều 86, Điều 227 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ điều 584, điều 585, điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
Về nội dung:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Lâm Văn Q yêu cầu buộc ông C phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại về danh dự nhân phẩm 1.000.000 (một triệu đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/8/2017 ông Lâm Văn Q có đơn kháng cáo cho rằng ông Vũ Hữu E là đại diện theo ủy quyền của ông Võ Văn C không thể nhân danh hay thay mặt ông C để xin lỗi được, ông E không có tham gia buổi đối chất giữa ông và ông C nên không đủ tư cách xác định nội dung tranh cãi giữa ông và ông C, xin xét xử lại vụ án theo hướng hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Phía nguyên đơn ông Lâm Văn Q đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc yêu cầu kháng cáo là hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Phía bị đơn ông Võ Văn C có ông Vũ Hưu E đại diện đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhay về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đối với các đương sự đã được đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
Ông Lâm Văn Q và ông Võ Văn C là đương sự trong một vụ án dân sự được tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh triệu tập lên làm việc vào ngày 15/11/2016. Sau khi tòa án làm việc xong, cả hai ông ra hành lang tòa án ngồi chờ Thư ký Tòa án hoàn thiện biên bản. Trong quá trình ngồi tại hành lang Tòa án thì ông C có nói lớn tiếng và chửi thề. Cho rằng ông C chửi mình nên ông Q đi lên lầu 2 nơi lãnh đạo Tòa án làm việc để phản ánh nhưng không gặp ai. Sau đó, ông Q đi xuống lầu 1 thì ông C tiếp tục to tiếng và chửi nhưng không nêu tên ai (theo bản ghi âm do ông Q cung cấp và được ông C xác nhận là giọng nói của mình). Ông Q bức xúc nên la lên, lúc này bảo vệ Tòa án đi lên lầu 1 thì ông C không chửi nữa.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tại tòa án cấp phúc thẩm, ông Q xuất trình bản lược âm từ bang ghi âm và sự xác nhận của ông E – đại diện ủy quyền của ông C có nội dung :Gì – kệ nó, kệ nó – nó là như vậy mới xứng đáng cho thằng Q vậy mới xứng đáng” nên ông Q cho rằng ông C đánh ông nhưng ông E không thừa nhận việc ông C đánh ông Q và ông Q cũng không có căn cứ chứng minh việc ông C đánh ông Q. Ngoài ra, ông Q cho rằng tại hành lang lầu một của Tòa án chỉ có ông C với ông Q nên ông Q cho rằng ông C chửi như vậy là chửi ông. Thực tế, ông C có nói to tiếng nhưng chưa đến mức được cho là xúc phạm đến ông Quit để buộc ông C phải xin lỗi ông Q nên ông C chỉ vi phạm nội qui của Tòa án là không nói lớn tiếng, không nói tục và ông C đã xin lỗi Tòa án. Ngoài ra, ông Q cho rằng việc ông C ủy quyền cho ông Vũ Hữu E tham gia với tư các là người đại diện theo ủy quyền là không đúng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại Điều 85 và Điều 87 Bội luật tố tụng dân sự năm 2015 thì việc ông C ủy quyền cho ông E đại diện mình tham gia tố tụng là đúng theo qui định của bộ luật tố tụng dân sự. do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Q là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Q. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Q cho rằng tên của ông là “Q” chứ không phải là “Quýt” như bản án sơ thẩm đã ghi nên cần điều chỉnh lại cho chính xác là “Q”.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Xét đề nghị này là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Miễn án phí phúc thẩm cho ông Lâm Văn Q.
Bởi các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 35, Điều 71, Điều 72, Điều 86, Điều 277, điều 266 và khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 584, Điều 585, điều 588 và Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu - nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Lâm Văn Q; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 119/2017/DS-ST ngày 28/07/2017 của Tòa án nhân dân huyện A, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Văn Q, buộc ông Võ Văn C phải công khai xin lỗi và bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm số tiền 1.000.000 đồng.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lâm Văn Q được miễn án phí. Hoàn lại cho ông Q 300.000 đồng theo biên lai thu số AD/2014/0007508 ngày 01/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện A.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lâm Văn Q được miễn.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2018/DSPT ngày 04/01/2018 về đòi bồi thường thiệt hại nhân phẩm, danh dự
Số hiệu: | 14/2018/DSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về