Bản án 14/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 14/2017/HSST NGÀY 20/09/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 20 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Nhà văn hóa xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2017/HS - ST, ngày 21- 8 - 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2017/QĐXX – HSST ngày 05 - 9 - 2017, đối với bị cáo:

Giáp Văn V, sinh năm 1973; họ tên gọi khác: không; trú tại: thôn C, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: làm ruộng; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hóa: lớp 2/12; con ông: Giáp Văn T và bà: Nông Thị Th; có vợ là Vương Thị T1 và 2 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2005.

Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2017 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Bắc Giang; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1) Chị Vương Thị T1, sinh năm 1973. Có mặt

Trú quán: Thôn C, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

2) Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1992. Vắng mặt

Trú quán: Thôn H, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

3) Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1986. Vắng mặt

Trú quán: Thôn C, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

4) Anh Lê Văn P, sinh năm 1991. Vắng mặt

Trú quán: Thôn V, xã An B, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

NHẬN THẤY

Bản cáo trạng số 14/2017/KSĐT, ngày 18 - 8 - 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động truy tố Giáp Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 194 – Bộ luật hình sự.

Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Do bản thân nghiện ma túy, Giáp Văn V, sinh năm 1973 ở thôn C, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang đã nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng và bán cho những đối tượng nghiện ma túy khác để kiếm lời. Thực hiện ý định trên, khoảng 7 giờ ngày 23/4/2017 V đã đi xe buýt xuống ngã ba K, xã G, huyện L, Bắc Giang mua của một người phụ nữ không biết tên, địa chỉ (V đã liên lạc bằng điện thoại từ trước); V đã mua 500.000đ ma túy đá và 450.000đ ma túy hêroin đã để sẵn dấu ở bờ đường, sau khi mua được ma túy V đón xe Buýt để về nhà. Khi mua được ma túy đem về nhà, V đã dùng kéo, bật lửa, ống hút nhựa chia nhỏ một phần ma túy đá cho vào 03 đoạn ống nhựa hàn kín lại rồi để trong túi nilon màu trắng, phần ma túy đá còn lại V để trong túi ni lon ban đầu; Còn số ma túy hêrôin V dùng giấy bạc của bao thuốc lá (một mặt màu trắng bạc, một mặt màu vàng) và dao lam chia nhỏ ma túy hêrôin được tổng cộng 13 gói, sau đó V cất số ma túy đá trong bao thuốc lá, còn số ma túy hêrôin V để trong túi quần soóc.

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 26/4/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S đã phát hiện và bắt quả tang Giáp Văn V đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hoàng Văn Đ, sinh năm 1992 ở thôn H, xã A, huyện S tại nhà riêng của V. Thu giữ tại chỗ 01 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong có đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy và thu giữ số tiền 200.000đ. Quá trình bắt quả tang Công an huyện S đã tiến hành niêm phong:

01 gói giấy bạc đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy nêu trên trong phong bì thư ký hiệu số 01.

Sau khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Giáp Văn V thu giữ gồm:

01 túi nilon màu trắng được hàn kín 3 cạnh, một cạnh để hở, bên trong đựng 06 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, bên trong mỗi gói giấy đều đựng chất cục bột màu trắng ghi là ma túy thu giữ trên nền đất, sát cạnh tấm lợp dựng vào tường nhà ở của Giáp Văn V.

01 túi nilon màu trắng, có một cạnh viền màu đỏ, bên trong đựng 09 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng và 01 gói giấy bạc mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng, bên trong mỗi gói giấy đều đựng chất cục bột màu trắng ghi là ma túy thu giữ trên nền sân sau nhà bếp của gia đình Giáp Văn V.

Thu giữ 01 bao thuốc lá nhãn hiệu WHITE HORSE để trong túi quần sóoc bên phải màu đen của Giáp Văn V (chiếc quần này V để ở trên bờ tường gạch sát cạnh cửa sau nhà bếp của gia đình V), bên trong bao thuốc lá có: 01 túi nilon màu trắng, có 01 cạnh viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy; 01 túi nilon màu trắng, được hàn kín 03 cạnh, một cạnh để hở, bên trong đựng 03 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu, bên trong mỗi đoạn ống nhựa đều đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy.

Sau khi thu giữ vật chứng, Cơ quan điều tra tiến hành niêm phong chất cục bột màu trắng và tinh thể màu trắng nghi là ma túy trong phong bì thư ký hiệu số 02.

Ngoài ra Cơ quan Công an thu giữ của V 02 điện thoại di động (trong đó có 01  điện thoại  nhãn hiệu FTP màu đen  trắng  đã cũ,  01  điện  thoại  nhãn  hiệu SAMSUNG DUOS màu vàng đồng đã qua sử dụng) và số tiền 19.700.000đ tiền Việt Nam.

Tại Cơ quan điều tra, Giáp Văn V khai nhận ngoài hành vi mua bán ma túy bị bắt quả tang, trước đó V còn bán ma túy nhiều lần cho các đối tượng nghiện ma túy, cụ thể:

Ngày 17/4/2017, V bán cho Nguyễn Văn N 01 gói ma túy hêrôin với giá 200.000đ; ngày 20/4/2017, V bán tiếp cho N 01 gói ma túy hêrôin với giá200.000đ; ngày 25/4/2017, V bán cho Hoàng Văn Đ 01 gói ma túy hêrôin với giá200.000đ; ngày 26/4/2017, V bán cho Lê Văn P 01 gói ma túy hêrôin với giá200.000đ. Những lần mua bán ma túy cho N, Đ và P, V đều bán tại nhà riêng ởthôn C, xã A.

Ngày 27/4/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S đã ra quyết định trưng cầu giám định xác định chất cục bột màu trắng và tinh thể màu trắng thu giữ được niêm phong trong 02 phong bì thư. Cùng ngày, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang có kết luận số 635/KL- PC54 kết luận:

- Trong phong bì thư ký hiệu “ 01” đã được niêm phong gửi giám định: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng là chất ma túy hêrôin, có khối lượng 0,023 gam.

- Trong phong bì thư ký hiệu “ 02” đã được niêm phong gửi giám định xác định:

Chất cục bột màu trắng đựng trong 06 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắngbạc, mặt trong màu trắng là chất ma túy hêrôin, có khối lượng 0,256 gam.

Chất cục bột màu trắng đựng trong 09 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng và 01 gói giấy bạc mặt ngoài màu vàng, mặt trong màu trắng đều là chất ma túy hêrôin, có khối lượng 0,544 gam.

Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng, 01 cạnh viền màu đỏ là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 1,041gam.

Tinh thể màu trắng đựng trong 03 đoạn ống nhựa màu trắng, đều được hàn kín 02 đầu đều là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,293gam.

Căn cứ Kết luận giám định đã xác định tổng khối lượng ma túy Cơ quan điều tra phát hiện, thu giữ ngày 26/4/2017 tại nhà của V được niêm phong trong 02 phong bì thư là 2,157 gam, trong đó: khối lượng hêrôin là 0,823 gam, khối lượng Methamphetamine là 1,334 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Giáp Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán ma túy của bản thân, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, các nhân chứng đều có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo. Tuy nhiên đối với 06 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, được đựng trong 01 túi nilon màu trắng được hàn kín 3 cạnh, một cạnh để hở bên trong đựng chất ma túy hêrôin thu giữ trên nền đất, sát cạnh tấm lợp dựng vào tường nhà ở của gia đình V, theo Kết luận giám định có khối lượng 0,256 gam, V khai số ma túy này không phải của V. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra cũng chưa xác định được 0,256 gam hêrôin này của ai, cơ quan điều tra đã tách ra khỏi vụ án, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, người liên quan, các nhân chứng khai như đã khai tại cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định phù hợp kết quả thu giữ vật chứng, có đủ cơ sở xác định bị cáo Giáp Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Giáp Văn V mức án từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù.Về hình phạt tiền: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn hình phạt tiền. Về vật chứng : Áp dụng khoản 2 Điều 76 - Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự. Tịch thu xung công quỹ Nhà nước: số tiền 200.000đ và chiếc điện thoại nhãn hiệu FTP màu đen trắng đã cũ thu giữ của bị cáo. Tịch thu tiêu huỷ:0,567gam hêrôin; 1,334 gam Methamphetamine được niêm phong trong 2 phong bìthư ký hiệu 01, 02. Trả lại cho bị cáo: số tiền 7.200.000đ và 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG DUOS màu vàng đồng đã qua sử dụng; bị cáo phải nộp truy thu sốtiền 800.000đ. Về án phí : Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơthẩm.

Về phần tranh luận: Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của kiểm sát viên và những người liên quan, nhân chứng tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, cụ thể: Giáp Văn V khai nhận phù hợp với lời khai của Hoàng Văn Đ, Nguyễn Văn N, Lê Văn P, Dương Văn L, Tằng Văn H, chị Ngọc Thị T, chị Vương Thị T1 là những người chứng kiến sự việc: thì Khoảng 10 giờ 00 phút ngày26/4/2017, Giáp Văn V đang có hành vi bán 01 gói ma túy hêrôin có khối lượng0,023 gam cho Hoàng Văn Đ thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sphát hiện bắt quả tang. Khám xét nơi ở của V, Cơ quan điều tra thu giữ 0,544 gam hêrôin và 1,334 gam Methamphetamine. Ngoài lần bị bắt quả tang trên, Giáp Văn V còn khai nhận bán 4 lần như sau: Ngày 17/ 4/2017 bán cho Nguyễn Văn N 01 gói Hêrôin với giá 200.000đ; ngày 20/4/2017 bán tiếp cho N 01 gói Hêrôin với giá200.000đ; ngày 25/4/2017 bán cho Hoàng Văn Đ 01 gói Hêrôin với giá 200.000đ;ngày 26/4/2017 bán cho Lê Văn P 01 gói Hêrôin với giá 200.000đ.

Tổng cộng số ma túy Giáp Văn V đã có hành vi mua bán được xác định là 1,901gam, trong đó có 0,567 gam hêrôin và 1,334 gam Methamphetamine.

Xét tính chất của vụ án: bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xuất phát từ bản thân bị cáo là một người nghiện ma tuý nên bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm vào sự độc quyền quản lý của Nhà nước trong việc quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an trong xã hội, gây nên tâm lý hoang mang lo ngại chung trong quần chúng nhân dân và gây ra các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo phạm tội nhằm mục đích để sử dụng và kiếm lời cho riêng cá nhân mình, bị cáo thể hiện là con người lười lao động, thích đua đòi nên bị cáo đã đi vào con đường nghiện ma tuý và từ đó dẫn đến vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo gây lên dư luận xấu trong khu vực địa bàn dân cư, nhất là đối với lọai tội phạm này ngày một gia tăng gây nhức nhối cho toàn xã hội.

Tuy số lượng ma túy thu giữ của bị cáo không nhiều (1,901gam), nhưng bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nhiều lần, mỗi lần bán của bị cáo đều dưới 1gam; do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Giáp Văn V đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Trước khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có thái độ thành thật khai báo, ăn năn hối hận nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 – Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Để giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa cần thiết phải lên một hình phạtthật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; buộc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo suy ngẫm và tự sửa chữa những lỗi lầm của mình gây ra. Từ những phân tích đánh giá tính chất của vụ án, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt đầu khung là phù hợp cũng đủ để răn đe bị cáo nói riêng và ngăn ngừa chung đối với loại tội phạm này.

Ngoài hình phạt tù cũng cần phải áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 194 - Bộ luật Hình sự mới phù hợp. Nhưng bị cáo thuộc diện hộ nghèo, bản thân lại nghiện ma tuý, mục đích của bị cáo mua bán để sử dụng và mua bán vụ lợi để kiếm lời cho việc sử dụng ma tuý cho riêng mình nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo .

Về vật chứng: Đối với số tiền 200.000đ là tiền V có được do bán ma túy khi bắt quả tang và chiếc điện thoại nhãn hiệu FTP màu đen trắng đã cũ do Cơ quan điều tra thu giữ, V dùng để liên lạc với đối tượng đã bán ma túy cho V cần tịch thu xung công quỹ Nhà nước. Số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ gồm 0,567gam hêrôin; 1,334 gam Methamphetamine được niêm phong trong 02 phong bì thư ký hiệu 01, 02 do cơ quan điều tra tiến hành niêm phong là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo đã 4 lần bán ma túy cho N, Đ, P thu lời bất chính được 800.000đ nay cần truy thu nộp xung công quỹ Nhà nước. Còn số tiền 7.200.000đ và 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG DUOS màu vàng đồng đã qua sử dụng V không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Tất các các vật chứng đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành ándân sự huyện S.

Đối với số tiền 12.500.000đ ở trong ví da màu trắng đen để trong hòm tôn gần cửa sổ phòng ngủ của gia đình Giáp Văn V. Quá trình điều tra xác định đây là tiền của Vương Thị T1 (vợ của V) không liên quan đến hành vi phạm tội, nên ngày18/5/2017, Cơ quan điều tra đã trả lại Vương Thị T1 là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với 01 chiếc kéo, 01 chiếc bật lửa và 01 con dao lam V khai dùng làm công cụ, dụng cụ để chia nhỏ ma túy ra thành từng gói nhỏ, sau đó V đã vứt đi nên Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không xử lý.

Đối với 06 gói giấy bạc, mặt ngoài màu trắng bạc, mặt trong màu trắng, được đựng trong 01 túi nilon màu trắng được hàn kín 3 cạnh, một cạnh để hở bên trong đựng chất ma túy hêrôin thu giữ trên nền đất, sát cạnh tấm lợp dựng vào tường nhà ở của gia đình V, theo Kết luận giám định có khối lượng 0,256 gam, V khai số ma túy này không phải của V. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra cũng chưa xác định được 0,256 gam hêrôin này của ai, cơ quan điều tra đã tách ra khỏi vụ án, khi nào xác định được sẽ xử lý sau là có căn cần chấp nhận.

Trong vụ án này còn có:

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Giáp Văn V ở khu vực ngã ngã ba K, xã G, huyện L, Bắc Giang, quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ ở đâu, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

Đối với Hoàng Văn Đ, Nguyễn Văn N, Lê Văn P, là những đối tượng nghiện ma túy, có hành vi mua ma túy để sử dụng; các đối tượng này mua ma túy với số lượng ít, hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự đối với Đ, N, P mà giao cho chính quyền địa phương phối hợp cùng gia đình lập hồ sơ cai nghiện tại gia đình, cộng đồng là đúng theo quy định của pháp luật cần chấp nhận.

Đối với Dương Văn L, Tằng Văn H quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc mua bán ma túy, L và H chỉ đến nhà V chơi nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với L và H.

Về án phí : Bị cáo Giáp Văn V thuộc hộ nghèo nên được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Bị cáo Giáp Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 - Bộ luật hình sự;

Xử phạt; Giáp Văn V 07 (bẩy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/4/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 76 - Bộ luật tố tụng hình sự :

Tịch thu xung công quỹ Nhà nước: số tiền 200.000đ, 01chiếc điện thoại nhãn hiệu FTP màu đen trắng đã cũ thu giữ của bị cáo.

Tịch thu tiêu huỷ: 0,567gam hêrôin; 1,334 gam Methamphetamine được niêm phong trong 02 phong bì thư ký hiệu 01, 02.

Trả lại cho bị cáo: số tiền 7.200.000đ và 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG DUOS màu vàng đồng đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo.

Bị cáo V phải nộp truy thu số tiền: 800.000đ để xung công quỹ Nhà nước.

Áp dụng Điều 99 - Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Giáp Văn V được miễn án phí hình sự sơ thẩm .

Án xử sơ thẩm. Báo cho bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

302
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2017/HSST ngày 20/09/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Động - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về