TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 14/2017/HNGĐ-ST NGÀY 06/12/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 06 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 81/2017/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Bế Văn T, sinh năm 1980.
Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983.
Địa chỉ trước khi bỏ nhà đi: Thôn N, xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 10 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Bế Văn T trình bày:
Anh và chị Nguyễn Thị H tự nguyện tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân; có đăng ký kết hôn ngày 04 tháng 11 năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi cưới một thời gian thì hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xích mích vì chị H lười lao động, không chịu làm việc phụ giúp gia đình. Đến ngày 06 tháng 6 năm 2009, chị H tự ý bỏ nhà đi biệt tích và không thấy trở về địa phương nữa. Người thân và gia đình đã tìm kiếm nhiều lần nhưng đều không có tin tức gì của chị H, không biết hiện nay chị H ở đâu, làm gì. Anh Bế Văn T đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn tuyên bố chị Nguyễn Thị H mất tích. Ngày 26/9/2016, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã ra quyết định số: 01/2016/QĐGQ-VDS tuyên bố chị Nguyễn Thị H mất tích. Nay anh Bế Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
Về con chung: Anh Bế Văn T và chị Nguyễn Thị H có 01 con chung là cháu Bế Văn T1, sinh ngày 17/01/2004, hiện nay cháu T1 đang sinh sống cùng với anh T. Khi ly hôn, anh T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến khi con chung đủ 18 tuổi, không yêu cầu chị H đóng góp phí tổn nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa, anh T xác định chị H đã mất tích, anh giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị H, yêu cầu được quyền nuôi con chung và không đề nghị chị H cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử, Toà án đã thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án đúng thủ tục, tuân thủ pháp luật; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ luật định.
Về ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án là chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Bế Văn T, cho anh Bế Văn T ly hôn với chị Nguyễn Thị H, giao con chung cho anh T nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi con chung đủ 18 tuổi, chị H không phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung đều không có nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Vế tố tụng: Anh Bế Văn T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giải quyết cho anh ly hôn với chị Nguyễn Thị H, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 01/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã thụ lý vụ án để giải quyết theo quy định của pháp luật. Do chị Nguyễn Thị H mất tích, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết công khai các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bế Văn T và chị Nguyễn Thị H chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh Lạng Sơn ngày 04/11/2002, do đó, anh T chị H là vợ chồng hợp pháp. Chị H đã bỏ nhà đi biệt tích từ tháng 6 năm 2009 đến nay không có tin tức gì, đã có quyết định của Tòa án tuyên bố chị H mất tích, do đó, cần chấp nhận yêu cầu của anh Bế Văn T, giải quyết cho anh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.
[3] Về con chung: Anh T và chị H có 01 con chung là cháu Bế Văn T1, sinh ngày 17/01/2004, hiện nay cháu T1 đang sinh sống cùng với anh T. Do chị Nguyễn Thị H đã mất tích nên anh T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chị H không phải góp phí tổn nuôi con chung do anh T không yêu cầu.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh T xác định hai vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Anh Bế Văn T là nguyên đơn khởi kiện, do vậy phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
[6] Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/QBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Bế Văn T và chị Nguyễn Thị H.
2. Về con chung: Anh Bế Văn T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Bế Văn T1, sinh ngày 17/01/2004 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị Nguyễn Thị H không phải góp phí tổn nuôi con chung.
3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Anh Bế Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Xác nhận anh Bế Văn T đã nộp đủ 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2012/03641 ngày 01 tháng 11 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn; Anh Bế Văn T không phải nộp thêm tiền án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn anh Bế Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 14/2017/HNGĐ-ST ngày 06/12/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 14/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về