Bản án 141/2021/HS-ST ngày 06/07/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 141/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2021/HSST, ngày 06/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2021/QĐXXST-HS ngày 13/5/2021, đối với các bị cáo:

1. Trương Văn T, sinh năm 1997 tại Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Trương Văn L và bà Đặng Thị H; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 91 ngày 19/01/2021, tại Công an quận Nam Từ Liêm; bị cáo đầu thú, tạm giữ từ ngày 08/01/2021 đến ngày 05/02/2021 được tại ngoại; Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

2. Quách Văn C, sinh năm 1996 tại Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: xã H, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn D (đã chết) và bà Quách Thị T; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 95 ngày 19/01/2021, tại Công an quận Nam Từ Liêm; bị cáo đầu thú, tạm giữ từ ngày 08/01/2021 đến ngày 05/02/2021 được tại ngoại; Hiện đang bị cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Long Biên khởi tố bị can và tạm giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; Có mặt.

3. Vương Tiến D, sinh năm 1995 tại Nghệ An; Nơi ĐKHKTT: xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Huy L và bà Võ Thị L; có vợ là Nguyễn Thị N, có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 89 ngày 19/01/2021, tại Công an quận Nam Từ Liêm; bị cáo đầu thú, tạm giữ từ ngày 08/01/2021 đến ngày 05/02/2021 được tại ngoại; Có mặt.

* Bị hại:

1. Ông Nguyễn Tiến T, sinh năm 1953; Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố số X, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; Vắng mặt;

2. Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1973; Nơi ĐKHKTT: xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội; Hiện cư trú: Tổ dân phố số X, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Quách Văn C, Trương Văn T, Vương Tiến D cùng nhau thuê trọ tại địa chỉ: Tổ X, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội và cùng làm nghề lắp đặt thang máy. Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 07/01/2021 C, T, D cùng các anh Mai Anh T, sinh năm 1999, HKTT: xã H, huyện Đ, tỉnh Nghệ An và Nguyễn Quang H, sinh năm 1995, HKTT: xã L, huyện Đ, tỉnh Nghệ An rủ nhau ngồi uống rượu tại quán vịt (gần nơi trọ) đến khoảng hơn 21 giờ cả nhóm đi về phòng trọ và lấy bia ra uống tiếp. Do hết bia nên T lấy xe máy và rủ C cùng đi mua bia, khi đi ra đến gần cửa cổng nhà ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1973, NKTT: Tổ X, phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội thì xe chết máy, C quên mang tiền nên quay vào phòng trọ để lấy tiền, còn T đứng để giậm nổ máy xe. Nhưng do ống pô xe bị hỏng nên tiếng nổ to, gây ồn ào, ông B ra cửa cổng nhắc nhở và mắng T làm ảnh hưởng, mất ngủ hàng xóm. Hai bên xảy ra xô xát cãi chửi nhau. Lúc đó, C đang vào phòng trọ để lấy tiền thì thấy T cãi nhau với ông B nên chạy quay lại, D trong phòng trọ đang uống bia thấy C chạy ra thì cũng chạy ra theo. Do thấy có thêm C, D chạy đến nên ông B sợ, đi vào và đóng cổng lại. T, C, D đứng phía ngoài cổng nhà ông B chửi bới, đạp tung cánh cửa cổng, nhặt gạch đá chạy vào trong sân ném vào nhà, ông B sợ nên trèo qua tường sang nhà hàng xóm để tránh. Ông Nguyễn Tiến T nghe thấy to tiếng xô sát đã mở cổng đi sang thì thấy C, D, T đang chửi bới, đập phá cửa cổng nhà ông B. Ông T nói “xung quanh đâu hết mà để chúng nó đập nhà thằng B thế này” và gọi “B đâu”. Ông B nghe tiếng ông T gọi thì đi ra cửa cổng nhà mình. Lúc này có một số người dân sinh sống xung quanh nghe tiếng cãi chửi nhau ra xem. T, C, D đi về phòng trọ nhưng thấy đông người và bị chửi bới nên C cầm mỏ lết bằng sắt dài khoảng 40 cm, T cầm 01 thanh sắt ống vuông, dài khoảng 90 cm chạy ra. Cả 3 cùng lao vào đánh, đập ông B, ông T tại khu vực trước cửa phòng trọ. Sau đó, T dùng đoạn sắt hộp đập nhiều cái liên tiếp về phía ông T làm ông T bị chảy nhiều máu ở đầu. C và ông B ôm nhau vật lôn trên đất, D nhặt cành cây khô ở gần phòng trọ dài khoảng 60cm đánh ông B, C vùng ra được cầm mỏ lết đánh, đập vào người ông B. Sau đó có nhiều người dân ra can ngăn nên các đối tượng bỏ chạy vào phòng trọ và khóa cửa lại. Ông B và ông T được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện 19-8 Bộ Công an. Tổ công tác công an phường Phú Đô đã lập biên bản thu giữ tang vật và đưa đối tượng liên quan về trụ sở làm việc. Tại cơ quan điều tra, các đối tượng C, T và D đã khai nhận về hành vi gây thương tích cho ông B và ông T.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 mỏ lết bằng kim loại màu trắng dài khoảng 40cm; 01 thanh sắt hộp vuông dài khoảng 90cm, cạnh khoảng 3cm; 01 đoạn cây khô, dài khoảng 60cm, đường kính đoạn rộng nhất khoảng 4cm.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 174 ngày 18/02/2021 của Trung tâm Pháp y Hà Nội kết luận thương tích của ông Nguyễn Tiến T như sau:

1. Hai vết thương vùng đầu: 08% 2. Vỡ xương chán trái: 08% 3. Gãy đốt 1 ngón IV tay trái: 02% 4. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ di chứng và biến chứng của các tổn thương. Đề nghị giám định bổ sung sau nếu có căn cứ.

5. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày và vật tày có cạnh gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khỏe 17% (tính theo phương pháp cộng lùi).

* Tại Bản kết luận gián định pháp y thương tích số 65 ngày 19/01/2021 của Trung tâm Pháp Y Hà Nội kết luận thương tích của ông Nguyễn Văn Bảy như sau:

1. Vết thương vùng trán đỉnh phải: 02%;

2. Vết thương xây xát vùng đỉnh: 01%;

3. Vết thương phức tạp đốt 01 và đốt 02 ngón II tay trái: 02%;

4. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ của tổn thương đứt gân ngón II tay trái. Đề nghị giám định bổ sung sau.

5. Nhiều khả năng các thương tích do vật có cạnh sắc gây nên. Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 05% (tính theo phương pháp cộng lùi).

Về dân sự: Gia đình các bị can Vương Tiến D, Quách Văn C, Trương Văn T đã tự nguyện bồi thường cho các bị hại. Ông Nguyễn Văn B và Nguyễn Tiến T đã nhận bồi thường thương tích và không có yêu cầu, đề nghị gì khác, đồng thời có đơn xin rút yêu cầu khởi tố, miễn giảm hình phạt cho các bị can.

Bản Cáo trạng số 102/CT-VKSNTL ngày 29/4/2021 của Viện kiểm sát nhân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo Vương Tiến D, Quách Văn C, Trương Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 (dẫn chiếu theo Điểm a Khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo Vương Tiến D, Quách Văn C thừa nhận hành vi như nội dung vụ án nêu trên, công nhận cáo trạng truy tố là đúng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của các bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố. Đề nghị áp dụng Điểm đ Khoản 2 (dẫn chiếu theo Điểm a Khoản 1) Điều 134, Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trương Văn T mức án từ 28 tháng đến 32 tháng tù; bị cáo Quách Văn C mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù; áp dụng Điểm đ Khoản 2 (dẫn chiếu theo Điểm a Khoản 1) Điều 134, các Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vương Tiến D mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù, cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 48 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

Về dân sự: Gia đình bị cáo và những người bị hại đã tự nguyện thỏa thuận với nhau không có yêu cầu nên không xem xét.

Về vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 01 cành cây khô, dài khoảng 60cm, đường kính đoạn rộng nhất khoảng 40cm; 01 thanh kim loại hình hộp, vuông dài khoảng 90cm và 01 chiếc mỏ lết bằng kim loại màu trắng, có chiều dài khoảng 40cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Bị cáo Trương Văn T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt với lý do tại địa phương nơi bị cáo cư trú đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh Covid-19 theo Chỉ thị 15 của Thủ tướng chính phủ có xác nhận của chính quyện địa phương do vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo Trương Văn T theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 290 của Bộ Luật Tố tụng hình sự.

Lời khai của các bị cáo Vương Tiến D, Quách Văn C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị cáo Trương Văn T và các bị hại cùng các T liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định:

[1] Khoảng 21 giờ, ngày 07/01/2021, tại tổ dân phố số 4 phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Trương Văn T, Quách Văn C, Vương Tiến D đã có hành vi dùng mỏ lết, thanh sắt hộp vuông, cành cây khô đánh vào vùng đầu, trán, tay của ông Nguyễn Tiến T gây tổn hại sức khỏe 17% và ông Nguyễn Văn B gây tổn hại sức khỏe 5%.

Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại sức khỏe, tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ. Xét về nguyên nhân, động cơ mục đích phạm tội của các bị cáo thấy: Xuất phát từ hành động nhắc nhở đơn thuần của người bị hại khi các bị cáo đi xe máy gây ra tiếng ồn quấy rầy giấc ngủ. Hai bên đã xảy ra xô sát, lời qua tiếng lại, các bị cáo không nhận thức được việc làm của mình là sai, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của người khác mà còn gây gổ, dùng hung khí như mỏ lết, thanh sắt hộp vuông, cành cây khô đánh vào vùng đầu, trán, tay của người bị hại. Hậu quả làm ông T bị tổn hại sức khỏe 17%, ông B tổn hại sức khỏe 5%. Các bị cáo đã thực hiện đầy đủ hành vi khách quan của tội phạm, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích”. Trong vụ án này ba bị cáo là đồng phạm không có sự bàn bạc trước, cả ba sử dụng hung khí nguy hiểm cùng xông vào tấn công các bị hại, trong đó Bị cáo T trực tiếp gây ra thương tích cho ông T, các bị cáo C và D trực tiếp gây ra thương tích cho ông B do vậy cả ba bị cáo là đồng phạm về hành vi gây tổn hại sức khỏe đối với cả ông T và ông B và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[2] Đánh giá về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo T sử dụng hung khí nguy hiểm là thanh sắt hộp vuông có khả năng gây nguy hiểm cao, trực tiếp gây tổn hại sức khỏe cho ông T với tỷ lệ là 17% do vậy tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cao hơn so với các bị cáo Quách Văn C và Vương Tiến D.

Về nhân thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. Riêng bị cáo C hiện đang bị cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Long Biên khởi tố bị can và tạm giam về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên không được coi là người có nhân thân tốt.

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Về các tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho những người bị hại, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, những người bị hại đã có đơn xin giảm trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được phân tích ở trên thì có đủ căn cứ áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự như Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp. Đối với bị cáo Vương Tiến D là đồng phạm có vai trò thấp trong vụ án, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo Vương Tiến D được hưởng án treo.

[4] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[5] Về vật chứng: Xét các vật chứng mà cơ quan điều tra đã thu giữ gồm có 01 cành cây khô, 01 thanh kim loại hình hộp và 01 chiếc mỏ lết bằng kim loại màu trắng đều liên quan đến hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điểm đ Khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 134), các Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trương Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trương Văn T 30 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2021 đến ngày 05/02/2021.

- Căn cứ vào Điểm đ Khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 134), các Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Quách Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Quách Văn C 27 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2021 đến ngày 05/02/2021.

- Căn cứ vào Điểm đ Khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 134), các Điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vương Tiến D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Vương Tiến D 24 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Vương Tiến D cho UBND xã Nghĩa Thành, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các Điều 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cành cây khô, dài khoảng 60cm, đường kính đoạn rộng nhất khoảng 40cm; 01 thanh kim loại hình hộp, vuông dài khoảng 90cm và 01 chiếc mỏ lết bằng kim loại màu trắng, có chiều dài khoảng 40cm. Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm theo Biên bản giao vật chứng số 160 ngày 04/5/2021.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo Vương Tiến D, Quách Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị cáo Trương Văn T và những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2021/HS-ST ngày 06/07/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:141/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về