Bản án 141/2021/HS-PT ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 141/2021/HS-PT NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 100/2021/TLPT-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021, do có kháng cáo của bị cáo Võ Ngọc T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân Tp Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Võ Ngọc T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1985, tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Xã C, huyện M, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Võ M1 (đã chết) và bà Lưu Thị L, sinh năm 1939, hiện trú tại: Xã C, huyện M, tỉnh Bình Định; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1980; bị cáo có 01 con sinh năm 2015, hiện đều trú tại: Quận C1, thành phố Đà Nẵng; tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang tại ngoại. Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Phan Văn T3 nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo kháng nghị.

* Người bị hại:

+ Ông Trương Minh P; sinh năm: 1959; địa chỉ: Thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị T1: sinh năm: 1971; địa chỉ: Xã T2, huyện N, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn T3, Võ Ngọc T và một người phụ nữ tên L1 (chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) rủ nhau thuê xe ô tô, giả làm xe dịch vụ đưa đón khách, để trộm cắp tài sản của khách đi xe, bằng hình thức móc túi. Phân công vai trò cụ thể như sau: T sẽ là người đi thuê xe hiệu TOYOTA, loại INOVA, màu bạc, biển số 47A-138.74 của anh Lê Ngọc K, trú tại: Phường A, thành phố T4 và là người lái xe, T3 giả làm lơ xe bắt khách, còn L1 giả làm khách ngồi trên xe để lén lút móc túi lấy tài sản của khách đi xe. Khi T3 bắt được khách, sẽ đưa họ lên xe ngồi giữa T3 và L1. Lúc này, tùy tài sản của khách để ở phía T3 hoặc L1 ngồi thì, T3 hoặc L1 sẽ là người móc túi trộm cắp tài sản, sau khi trộm cắp tài sản xong thì sẽ ra hiệu bằng câu “Rồi” để T dừng xe lại, sau đó T và T3 sẽ phối hợp để tìm cách đưa khách xuống xe. Số tiền trộm cắp được sau khi trừ tiền đổ xăng, tiền thuê xe thì chia đều cho T3, T và L1. Từ ngày 31/5/2020 đến ngày 04/6/2020, T3, T và L đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khong 08 giờ ngày 31/5/2020, T điều khiển xe ô tô hiệu TOYOTA, loại INOVA, màu bạc, biển số 47A-138.74 chở T3 và L1 đi trên đường C2, hướng từ Trung tâm thành phố T4 đi thị xã H1, tỉnh Đắk Lắk. Khi đi đến khu vực phía trước chùa TT, thuộc phường A, thành phố T4 thì phát hiện ông Trương Minh P và bà Phạm Thị H2, cùng trú tại: Thị trấn Đ, huyện E, tỉnh Đắk Lắk đang đợi xe. Lúc này, T dừng xe và chào mời vợ chồng ông P lên xe. Ông Pt nói đang đợi xe TS, thì T3 nói đây là xe trung chuyển của xe TS sau đó xuống đưa ông P và bà H2 lên xe. Khi đi được khoảng 200 m, lợi dụng lúc ông P sơ hở, T3 dùng tay móc trộm ví da màu đen ở túi quần sau của ông P. Khi lấy xong T3 nói “rồi”, L1 và T3 yêu cầu ông P, bà H2 xuống xe và đợi xe TS tới đón. Kiểm tra ví da của ông P, T3 phát hiện bên trong có: Số tiền 6.900.000 đồng, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe, thẻ thương binh của ông P thì nói với T và L1 ví của ông P vừa lấy trộm được chỉ có 5.400.000 đồng nên chỉ chia cho anh T và chị L1 mỗi người 1.700.000 đồng, đưa cho T 300.000 đồng để đổ xăng và vứt ví ra cùng giấy tờ của ông P dọc đường đi (không rõ địa chỉ). Còn lại số tiền 3.200.000 đồng T3 giữ lại tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 03/6/2020, T điều khiển xe ô tô biển số 47A-138.74, chở T3 và L1 đi trên Quốc Lộ 0, tỉnh Đắk Lắk. Khi cả ba đi đến địa phận thôn 0, xã K1, huyện P1, tỉnh Đắk Lắk thì phát hiện bà Lê Thị Thu N, trú tại: Thôn 0, xã K1, huyện P1, tỉnh Đắk Lắk đang đứng ở ven đường đón xe HK đi thành phố T5, tỉnh Khánh Hòa. Lúc này, T dừng xe để T3 xuống xe nói bà N đây là xe trung chuyển của xe HK, chèo kéo bà N lên xe, bố trí ngồi giữa vị trí của T3 và L1. Sau đó, lợi dụng sơ hở của bà N, T3 đã lén lút móc túi chiếm đoạt số tiền 94.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Oppo, loại A3S, dung lượng 16Gb, màu đen. Sau đó, T dừng xe, T3 nói bà N xuống xe đợi để xe HK tới đón rồi chạy thoát. Số tiền chiếm đoạt được của bà N, T3 sử dụng để tiêu xài cá nhân hết, còn điện thoại di động trên thì T3 giữ lại sử dụng làm phương tiện liên lạc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 212/KLĐG ngày 08/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận:

01 điện thoại hiệu OPPO, màu đen, trị giá 1.200.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 08 giờ ngày 04/6/2020, T điều khiển xe ô tô biển số 47A-138.74 chở T3 và L1 đi trên đường Quốc lộ 14, hướng từ thành phố T4 đi Đắk Nông. Khi đi đến khu vực thôn 0, xã P2, thành phố T4 thì thấy bà Nguyễn Thị T1, trú tại: Xã T2, huyện N, tỉnh Đắk Nông đang đứng trước cây xăng HH thuộc thôn 0, xã P2, thành phố T4 để đón xe khách về huyện N, tỉnh Đắk Nông. T cho xe dừng, T3 xuống xe và hỏi bà T1 “chị đi đâu?”, bà T1 trả lời “đi về bùng binh bến xe cũ huyện N”, T3 nói “được rồi năm mươi ngàn đồng lên xe”, bà T1 tin là xe dịch vụ nên lên xe. Lên xe thì bà T1 ngồi hàng ghế sau tài, giữa T3 và L1. Khi xe đi được khoảng 01 km thì thấy bà T1 thiếu cảnh giác nên T3 dùng tay phải lén lút móc trong túi áo khoác bên phải của bà T1 lấy số tiền 4.200.000 đồng. Sau khi lấy được tiền thì T3 nói “rồi”, T nghe thì hiểu ý nên nói với bà T1 xe chỉ đi huyện M2 không đi N và để bà T1 xuống xe. Sau đó, T điều khiển xe quay lại đi về hướng Trung tâm thành phố T4. Trên xe T3 chia mỗi người 1.400.000 đồng. Khi đi đến Trạm Cảnh sát giao thông của Phòng PC08 Công an tỉnh Đắk Lắk, thuộc xã P2 thì bị lực lượng Công an ra hiệu lệnh dừng xe nên T dừng xe, L1 xuống xe và bỏ đi còn T và T3 được đưa về trụ sở để làm việc cùng toàn bộ tang vật.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Võ Ngọc T: 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được khấu trừ ngày 05/06/2020 đến ngày 15/10/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử đối với 01 bị cáo khác, tuyên xử lý về trách nhiệm dân sự, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 06/02/2021, bị cáo Võ Ngọc T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Võ Ngọc T 02 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và mức hình phạt đối với các bị cáo là thỏa đáng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo trong hồ sơ vụ án phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 31/5/2020 đến ngày 04/6/2020; Võ Ngọc T và đồng phạm đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản với tổng trị giá tài sản trộm cắp là 11.100.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, khi thực hiện hành vi bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng chỉ vì ham lợi bất chính không chịu lao động, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Quá trình xét xử cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp so với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo gây ra. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên HĐXX phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Võ Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Ngọc T.

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2021/HSST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Võ Ngọc T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo Võ Ngọc T được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/06/2020 đến ngày 15/10/2020.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Võ Ngọc T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2021/HS-PT ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:141/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về