Bản án 141/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 135/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2020/HSST-QĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

* Họ và tên: Bùi Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 15 tháng 8 năm 1983; tại: huyện K, tỉnh T; nơi cư trú: Khu H, phường N, thành phố M, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn P, sinh năm 1958 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1957; vợ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1986; con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Năm 2012, Công an phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác; bị cáo bị bắt quả tang ngày 08/9/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái; Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Đỗ Ngọc K. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 08/9/2020, Bùi Văn T đi bộ đến khu vực gần cảng M ( thuộc khu 6, phường K, thành phố M) tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua 01 túi ma túy “đá” của một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 280.000 đồng. Sau khi mua, Thức giấu túi ma túy vào khe nhỏ ở bên ngoài chiếc mũ lưỡi trai đang đội rồi đi tìm nơi để sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực thôn 9, xã H, thành phố M, thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Móng Cái phối hợp với Công an phường Hải Yên kiểm tra phát hiện bắt quả tang. Vật chứng thu giữ của T: 01 túi nilon màu trắng kích thước (02x1,5)cm chứa chất tinh thể màu trắng; 01 chiếc mũ lưỡi trai; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Bùi Văn Thức; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone và số tiền 2.130.000đ (hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

Tại bản kết luận giám định số 1290/GĐMT ngày 13/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật thu giữ của Bùi Văn T gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 0,302g (không phẩy ba không hai gam).

Tại bản cáo trạng số: 141/CT-VKS-MC, ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố Bùi Văn T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn T khai nhận đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nêu trên.

* Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử

- Áp dụng áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự

Xử phạt: Bùi Văn T từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt: ngày 08/9/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,25g (không phẩy hai năm gam), là mẫu vật hoàn lại niêm phong phong bì số 1290/KLĐG và 01 (một) mũ lưỡi trai màu trắng đã qua sử dụng;

+ Trả lại cho bị cáo Bùi Văn T: 01 (một) chứng minh nhân dân số 031083003061 mang tên Bùi Văn T; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen; số Imei 1: 357693105027982; số Imei 2: 357693105527981, bên trong lắp 02 sim; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng - hồng, bên trong lắp 01 sim và tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 2.130.000 đồng.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

* Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội, về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

Xét lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/9/2020, tại thôn 9, xã Hải Xuân, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Văn T có hành vi cất giấu trái phép 0,302 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng, thì bị phát hiện bắt quả tang.

Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chế độ của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

Do đó, hành vi như nêu trên của bị cáo Bùi Văn T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:.:

c) ...Methamphetamine, ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, đã bất chấp thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo làm cho tệ nạn mua bán trái phép chất ma túy gia tăng, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, thấy cần thiết phải đưa bị cáo ra xét xử công khai, xử lý nghiêm và dành cho bị cáo mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mới có tác dụng giáo dục và phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Bùi Văn T có nhân thân xấu (năm 2012, Công an phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác). Do đó, cần thiết xem xét khi quyết định hình phạt.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 0,25g (không phẩy hai năm gam), ma túy Methamphetamine là vật nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy;

+ 01 (một) mũ lưỡi trai màu trắng đã qua sử dụng, không còn giá trị, nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 (một) chứng minh nhân dân số 031083003061 mang tên Bùi Văn T là giấy tờ tùy thân của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

+ 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen; số Imei 1: 357693105027982; số Imei 2: 357693105527981, bên trong lắp 02 sim; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng - hồng, bên trong lắp 01 sim, bị cáo không sử dụng hai chiếc điện thoại nêu trên để liên lạc mua ma túy, nên cần trả lại cho bị cáo;

+ Số tiền 2.130.000đ (hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng), không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

[7] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát Xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng Hình sự quy định; Tại phiên tòa bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí sơ thẩm: bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

[9] Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

[10] Liên quan trong vụ án có người đàn ông đã bán trái phép chất ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Bùi Văn T (tên gọi khác: Không)

Phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bùi Văn T 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt: ngày 08/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,25g (không phẩy hai năm gam), ma túy Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại, niêm phong trong phong bì số 1290/KLĐG và 01 (một) mũ lưỡi trai màu trắng;

+ Trả lại cho bị cáo Bùi Văn T: 01 (một) chứng minh nhân dân số 031083003061 mang tên Bùi Văn T; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen; số Imei 1: 357693105027982; số Imei 2: 357693105527981, bên trong lắp 02 sim; 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone màu trắng - hồng, bên trong lắp 01 sim và tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 2.130.000đ (hai triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

(Vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 24/2021/THA ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về