Bản án 141/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 157/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 192/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Chiêm Thanh T; sinh năm: 1979, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: 13 8A Đường U, Phường X, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 122/2 Đường H, phường PTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chiêm Diêu O và bà Thanh Huệ U; Có vợ Dương Thị Thanh Y (không đăng ký kết hôn). Tiền án, tiền sự: không

Nhân thân:

- Ngày 17/4/2009, Tòa án nhân dân quận Bình Tân xét xử tuyên phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ ừái phép chất ma túy”. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 19/7/2010.

- Ngày 30/10/2015 Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử tuyên phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 31/8/2016.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/6/2020 đến nay. (có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Dương Thị Thanh Y, sinh năm: 1967; Địa chỉ cư trú: 109 Đường L, phường PTH, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đuợc tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ ngày 27/6/2020, Công an Phường 14 Quận 8 tuần tra đến trước số 40 Đường H, Phường M, Quận B thì phát hiện Chiêm Thanh T đang điều khiển xe máy biển so 54N8 - 6323 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu dừng xe lại kiểm tra. Nhìn thấy Công an, T ném từ tay trái xuống đất 01 (một) đoạn ống hút màu tím được hàn kín hai đầu bên trong chứa ma túy. Công an Phường 14 tiến hành thu giữ vật chứng, tạm giữ của T01 (một điện thoại di động), 01 (một) xe máy biển số 54N8-6323 và đưa T về trụ sở Công an Phường 14 Quận 8 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, toàn bộ vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra làm rõ.

Tại bản kết luận giám định số 1108/KLGĐ-H ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 01 đoạn ống hút màu tím được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Chiêm Thanh T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 8, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1146g (không phẩy một một bốn sáu gam), loại Heroine.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Chiêm Thanh T khai nhận: Bản thân nghiện ma túy từ tháng 01/2020 và thường xuyên đến khu vực đường Bùi Viện, Quận 1 và khu vực Phường 14, Quận 8 mua ma túy về sử dụng. Vào khoảng 17 giờ ngày 27/6/2020, T điều khiển xe máy biển số 54N8-6323 đến khu vực ngã ba đường Cây Sung và đường Đường H, Phường M, Quận B liên hệ với một người phụ nữ (không rõ lai lịch) mua 01 tép Heroine với giá 90.000 đồng. Mua được ma túy, T cầm trên tay và điều khiển xe máy về đến trước số 40 đường Hoài Thanh Phường 14 Quận 8 thi bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) điện thoại di động là tài sản cá nhân của T, không dùng vào việc mua ma túy.

- Xe gắn máy biển số 54N8-6323.

Tại bản Cáo trạng số 158/CT-VKSQ8 ngày 08/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Chiêm Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Chiêm Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. về vật chứng thu giữ, đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói ma túy thu giữ của bị cáo; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động; tiếp tục đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp xe gắn máy biển số 54N8-6323.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cãi và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào lúc 18 giờ ngày 27/6/2020 tại trước số 40 đường Hoài Thanh Phường 14 Quận 8, Chiêm Thanh T có hành vi cất giữ trái phép 0,1146g ma túy loại Heroine để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.

[3] Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... ”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy và an toàn xã hội. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Chiêm Thanh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Năm 2009, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân kết án 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Năm 2015, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình kết án 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Mặc dù không bị xem là án tích nhung khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[7] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, hành vi không nhằm mục đích thu lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng vụ án, quá trình điều tra thu giữ số ma túy trong 01 (một) gói niêm phong ghi vụ so 1108/20/Q8, xét đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy.

[9] 01 (một) điện thoại di động hiệu “Itel”, màu đen, tạm giữ của bị cáo; xét đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo.

[10] 01 xe máy biển số 54N8-6323 do ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1963, ngụ B14/15A ấp 2C xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh đứng tên chủ sở hữu. Chiếc xe trên đã bán qua nhiều người (nhưng không làm thủ tục sang tên), người mua xe ở thời điểm hiện tại là bà Dương Thị Thanh Y (người sống như vợ chồng với T). Việc T sử dụng chiếc xe gắn máy thực hiện hành vi phạm tội Y không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe trên nhưng chưa có kết quả. Nên tiếp tục đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Neu quá thời hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì trả lại 01 xe máy biển số 54N8-6323, số khung: RNGKCG1 VH91005050, số may: VZS150FMG1005050 cho bà Dương Thị Thanh Y là người đang quản lý hợp pháp chiếc xe và không có ai tranh chấp đối với chiếc xe trên.

[11] Đối với người phụ nữ (không rõ lai lịch) bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được lai lịch, quá trình điều tra không đưa vào tham gia tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Chiêm Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Chiêm Thanh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/6/2020.

- Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điều 221, 228 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1108/20/Q8, bên ngoài có chữ ký ghi tên Chiêm Thanh T và hình dấu Công an Phường 14, Quận 8, các chữ ký ghi tên giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, cán bộ điều tra Nguyễn Huy Long.

Trả lại bị cáo: 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu “Itel” số IMEI 1: 351980109272201, số IMEI 2: 351980109272219

Tiếp tục tạm giữ và đăng tin thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 (một) năm, để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp đối với xe máy biển so 54N8-6323; nếu quá thời hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì trả lại 01 xe máy biển số 54N8-6323, số khung: RNGKCG1VH91005050, số máy: vzs 15 0FMG1005050 cho bà Dương Thị Thanh Y.

(Tất cả theo Phiếu nhập kho vật chứng số 177/PNK ngày 01/9/2020).

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Chiêm Thanh T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về