Bản án 141/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 141/2020/HS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 140/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2020, đối với các bị cáo:

Đinh Hữu T sinh ngày 01/6/1988. Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Trình độ học vấn: 11/12. Nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Con ông: Đinh Đức C. Con bà: Nông Thị N. Vợ: Nguyễn Phương L. Con: Có 01 người con sinh năm 2007. Tiền sự: Không. Tiền án: 01 tiền án: Nhân thân: Tại bản án số 58/20014/HSST ngày 23/5/2014 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 36 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tam giam từ ngày 30/6/2020 tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt

Trần Thị Thu H, sinh ngày 05/11/1985. Nơi ĐKHKTT: Đường X, tổ dân phố C, Phường X, quận B, thành phố Hà Nội. Trình độ học vấn: 06/12. Nghề nghiệp: không; giới tính: Nữ. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: không. Con ông: Trần Văn M. Con bà: Nguyễn Thị H. Chồng: Nguyễn Văn N, sinh năm 1983; con: chưa có. Tiền án, tiền sự: không có. Bị can bị tạm giam từ ngày 15/6/2020 tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đến nay. Có mặt

Ngưi bị hại: Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1991, địa chỉ số 345, đường N, phường V, thành phố L, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Hữu T, sinh năm 1988, HKTT: Đường B, phường T, thành phố L và Trần Thị Thu H, sinh năm 1985, HKTT: Đường X, tổ dân phố C, quận B, thành phố Hà Nội quen biết và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2019 tại phòng trọ thôn Q, xã H, thành phố L. Ngày 28/3/2020 Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H đang ở cùng nhau tại phòng trọ do hết tiền tiêu xài cá nhân, Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H đã bàn nhau đi thuê xe mô tô đem đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Sau khi bàn bạc, T lên mạng xã hội Facebook tìm chỗ thuê xe, T biết cửa hàng xe máy của anh Hoàng Văn T, sinh năm 1991, tại địa chỉ đường N, phường V, thành phố L cho thuê xe mô tô tự lái. Khoảng 16 giờ cùng ngày Đinh Hữu T, một mình từ phòng trọ đến cửa hàng anh T để thuê chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu vàng đen BKS 12U1-033xx. Đinh Hữu T và anh T thỏa thuận giá thuê xe là 100.000đ/ngày, thời hạn thuê 7 ngày, Đinh Hữu T đặt cọc cho anh Hoàng Văn T số tiền là 1.000.000đ thống nhất khi trả xe anh Hoàng Văn T sẽ trả lại tiền đặt cọc cho Đinh Hữu T. Sau khi thuê được xe Đinh Hữu T mang xe về phòng trọ và liên lạc với Phạm Văn T, sinh năm 1987, trú tại đường T, phường C, thành phố L để hỏi chỗ cầm cố xe. Khoảng 1 giờ ngày 29/3/2020 Đinh Hữu T một mình mang xe đến đường T, phường H, thành phố L gặp Phạm Văn T rồi Phạm Văn T giới thiệu anh Vũ Tuấn S, sinh năm 1996, trú tại số đường B, phường H, thành phố L để vay tiền. Đinh Hữu T đặt xe mô tô chỗ anh Vũ Tuấn S để làm tin và vay của Vũ Tuấn S số tiền 3.600.000đ (ba triệu sáu trăm nghìn đồng). Sau đó, Đinh Hữu T đi về phòng trọ và chia cho Trần Thị Thu H số tiền 1.600.000đ (một triệu sáu trăm nghìn đồng), số tiền còn lại Đinh Hữu T tiêu xài cá nhân hết.

Đến ngày 07/4/2020 Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H hết tiền tiêu xài lại tiếp tục bàn nhau đi thuê xe để cầm cố lấy tiền tiêu xài. Khoảng 16 giờ cùng ngày Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H đến cửa hàng của anh Hoàng Văn T để thuê xe. Khi đến nơi Đinh Hữu T đứng ở ngoài đợi còn H đi vào cửa hàng thuê với anh Hoàng Văn T chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen đỏ xám, BKS 12T1 – 012xx với giá 100.000đ/ngày trong thời hạn 7 ngày. Sau khi thuê được xe Trần Thị Thu H liên lạc với Hoàng Văn H, sinh năm 1989, trú tại thôn B, xã H, thành phố L để hỏi chỗ cầm cố xe và được Hoàng Văn H giới thiệu đến chỗ anh Nguyễn Văn T sinh năm 1978, trú tại khối 6, phường T, thành phố L để cầm cố.

Sau đó Trần Thị Thu H và Đinh Hữu T lấy xe đến chỗ anh Nguyễn Văn T đặt làm tin để vay số tiền 3.600.000đ, số tiền cầm cố xe có được Trần Thị Thu H giữ 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn), còn lại Đinh Hữu T giữ 2.100.000đ (hai triệu một trăm nghìn).

Tại Biên bản định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 42/ĐGTSTT ngày 07/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu vàng đen, BKS 12U1 – 033xx là 7.600.000đ (bảy triệu sáu trăm nghìn đồng) và trị giá chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda wave, màu đen đỏ xám, BKS 12T1 - 012.xx là 4.300.000đ (bốn triệu ba trăm nghìn). Tổng giá trị hai chiếc xe trên là 11.900.000đ (mười một triệu chín trăm nghìn đồng). Vật chứng trong vụ án: Thu giữ số tiền 8.360.000đ (tám triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng) 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmat, màu đen số IMEU 352705110077342 máy đã qua sử dụng của Trần Thị Thu H; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 2730, màu đen, số IMEI: 357411046426571 đã qua sử dụng của Đinh Hữu T; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng OCB mang tên Đinh Hữu T; 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen BKS 12U1 - 03389 đã qua sử dụng, hiện đang được lưu giữ tại kho Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

Đối với Phạm Văn T, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn T và Vũ Tuấn S do không biết nguồn gốc của hai chiếc xe mô tô trên là do Trần Thị Thu H và Đinh Hữu T lừa đảo mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn không có cơ sở xử lý trong vụ án này.

Tại Cáo trạng số 140/CT-VKSTP ngày 25 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo khoản 1, Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, không oan.

Anh Hoàng Văn T trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Đinh Hữu T phải bồi thường thiệt hại cho anh số tiền thuê xe là 6.000.000 đồng tiền thuê xe tính từ ngày 14/4/2020 đến ngày 15/6/2020. Không yêu cầu bị cáo Trần Thị Thu H bồi thường gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho anh chiếc xe mô tô nhãn hiệu honda BKS: 12U1-033xx.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H phạm tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Căn cứ khoản 1 Điều 174, Điều 38, Điều 58 điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù. Căn cứ khoản 1 Điều 174, Điều 38, Điều 58 điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đinh Hữu T từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, số IMEI: 352705110077342 bị nứt màn hình, máy đã qua sử dụng và 8.360.000 đồng cho bị cáo Trần Thị Thu H; trả lại cho bị cáo Đinh Hữu T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NoKia màu đen, số IMEI: 357411/04/642657/1 máy đã qua sử dụng; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng OCB mang tên Đinh Hữu T; Trả lại cho anh Hoàng Văn T 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen BKS 12U1 – 033xx đã qua sử dụng. Về trách nhiệm bồi thường. Buộc bị cáo Đinh Hữu T phải bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Văn T số tiền 6.000.000 đồng, tiền thuê xe mô tô. Không xem xét giải quyết bồi thường đối với bị cáo Trần Thị Thu H, vì người bị hại không yêu cầu. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Các Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, Biên bản định giá của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 28/3/2020 và ngày 07/4/2020 Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H có lý lich nêu ở phần trên, đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu vàng đen, BKS 12U1 – 033xx trị giá là 7.600.000đ (bảy triệu sáu trăm nghìn đồng) và chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda wave, màu đen đỏ xám BKS 12T1 – 012xx trị giá là 4.300.000đ (bốn triệu ba trăm nghìn). Tổng giá trị hai chiếc xe trên là 11.900.000đ (mười một triệu chín trăm nghìn đồng). Vì vậy, có đủ cơ sở để kết tội Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H phạm tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong nhân dân trên địa bàn. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo muốn có tiền tiêu sài nhưng lười lao động nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Đinh Hữu T là người mắc nghiện chất ma túy, ngày 11/6/2010 Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn đã ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng đến năm 2012 bị cáo đã chấp hành xong, ngày 23/5/2014 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 36 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, thể hiện sự coi thường pháp luật, nên vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bởi vậy, cần xử nghiêm khắc đối với bị cáo để nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm. [5] Đối với bị cáo Trần Thị Thu H trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa bị xử lý kỷ luật, không có tiền án, tiền sự, lần phạm tội này là lần đầu. Tuy nhiên, trong vụ án này bị cáo với vai trò đồng phạm, bị cáo đã cùng bị cáo Đinh Hữu T bàn bạc thực hiện hành vi phạm tội, do đó cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của bản thân, xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để làm gương cho người khác.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H đều có 01 (một) tình tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (phạm tội 02 lần trở lên).

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo "thành khẩn khai báo", "ăn năn hối cải" về hành vi của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trần Thị Thu H phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã vận động người thân khắc phục xong hậu quả thiệt hại, nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo như phân tích ở trên. Xét thấy, bị cáo Đinh Hữu T là người đóng vai trò chính trong vụ án, bị cáo có 01 (một) tình tiết giảm nhẹ, 01 (một) tình tiết tăng nặng và là người có nhân thân không tốt, nên Hội đồng xét xử xét thấy việc áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo cần nghiêm khắc hơn so với bị cáo Trần Thị Thu H.

[9] Đối với bị cáo Trần Thị Thu H là người đóng vai trò đồng phạm trong vụ án, trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên Hội đồng xét xử xét thấy việc áp dụng mức hình phạt đầu khung cho bị cáo là phù hợp, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, thành người có ích cho gia đình và xã hội. Sớm hòa nhập cộng đồng.

[10] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không nghề nghiệp ổn định, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[11] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, số IMEI: 352705110077342 bị nứt màn hình, máy đã qua sử dụng và 8.360.000 đồng cho bị cáo Trần Thị Thu H; trả lại cho bị cáo Đinh Hữu T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NoKia màu đen, số IMEI: 357411/04/642657/1 máy đã qua sử dụng; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng OCB mang tên Đinh Hữu T; do không có liên quan đến vụ án. Trả lại cho anh Hoàng Văn T 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen BKS 12U1 – 033xx đã qua sử dụng. Số tang vật trên đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.

[12] Về trách nhiệm bồi thường: Áp dụng Điều 584; 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Đinh Hữu T phải bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Văn T số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) tiền thuê xe tính từ ngày 14/4/2020 đến ngày 15/6/2020. Không xem xét giải quyết về bồi thường đối với bị cáo Trần Thị Thu H, vì bị cáo đã bồi thường xong và người bị hại không yêu cầu gì thêm trong vụ án.

[13] Đối với Phạm Văn T, Hoàng Văn H, Nguyễn Văn T và Vũ Tuấn S do không biết nguồn gốc của hai chiếc xe mô tô trên là do Trần Thị Thu H và Đinh Hữu T lừa đảo mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn không có cơ sở xử lý trong vụ án này. Do vậy, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết trong vụ án.

[14] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Lạng Sơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[15] Các bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[16] Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 47; điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 584; 585 và Điều 589 Bộ luật dân sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Đinh Hữu T.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; Điều 47; điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Trần Thị Thu H.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Hữu T và Trần Thị Thu H phạm tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Hữu T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/6/2020.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/6/2020.

Không áp dụng khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo không có tài sản để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Về trách nhiệm bồi thường: Buộc bị cáo Đinh Hữu T phải bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Văn T số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) tiền thuê xe tính từ ngày 14/4/2020 đến ngày 15/6/2020. Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành chậm trả thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả quy định tại Điều 357 của Bộ Luật dân sự.

Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ Luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4.Về xử lý vật chứng: Trả lại 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen, số IMEI: 352705110077342 bị nứt màn hình, máy đã qua sử dụng và 8.360.000 đồng (tám triệu ba trăm sáu mươi nghìn đồng) cho bị cáo Trần Thị Thu H; trả lại cho bị cáo Đinh Hữu T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NoKia màu đen, số IMEI: 357411/04/642657/1 máy đã qua sử dụng; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng OCB mang tên Đinh Hữu T. Trả lại cho anh Hoàng Văn T (có địa chỉ nêu trên) 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu vàng đen BKS 12U1 – 033xx đã qua sử dụng. (Vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/8/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

5. Về án phí: Bị cáo Đinh Hữu T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đồng án dân sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Thị Thu H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 141/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:141/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về