TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 141/2020/HS-PT NGÀY 05/03/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 609/2019/TLPT-HS ngày 26 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Phúc H do có kháng cáo của bị cáo H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 151/2019/HS-ST ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Phúc H, sinh ngày 31/12/1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 135/7 LLQ, Phường G, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 124/1D PTD, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên pha chế; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Ngọc H; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
- Người bào chữa:
Ông Nguyễn Hữu Thống là luật sư của Công ty Luật TNHH Dư Niên thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phúc H - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào năm 2016, Ngân hàng Vietcombank – Chi nhánh Tp.Hồ Chí Minh nhận được đơn khiếu nại của một số chủ thẻ Đặng Hồng Ng, Liêu Hà Tr, Trần Ý Nh, Thái Bá D, Michael L, Tô Phước S, Nguyễn Ngọc Gia B về việc không thực hiện mua hàng trực tuyến trên mạng Internet nhưng tài khoản vẫn bị trừ tiền, các chủ thẻ trên có điểm chung là trước thời điểm phát sinh giao dịch mất tiền, đều sử dụng thẻ để thanh toán tiền sử dụng dịch vụ tại Khách sạn H, địa chỉ số 76 – 78 NK, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả trích xuất hình ảnh camera tại Khách sạn H phát hiện nhân viên thu ngân tên Tô Châu Ngọc Th, thường dùng điện thoại di động chụp ảnh 02 mặt thẻ sau khi đã cà thẻ cho khách hàng thanh toán dịch vụ tại đây. Tô Châu Ngọc Th khai nhận làm nhân viên thu ngân tại khách sạn trên từ khoảng tháng 12/2015 đến tháng 08/2016 thì nghỉ việc, công việc chính của Th là trực tiếp thu tiền khách hàng sử dụng dịch vụ và làm báo cáo thu theo quy định. Khi thanh toán tiền sử dụng dịch vụ, khách hàng lựa chọn thanh toán bằng tiền mặt hoặc đưa thẻ thanh toán cho Th để cà thẻ (quẹt thẻ) thông qua máy Pos (máy bán hàng chấp nhận thẻ ngân hàng để thanh toán hóa đơn dịch vụ thay tiền mặt …), việc cà thẻ thường xảy ra trường hợp bị lỗi báo thẻ không nhận diện được, nhưng thực tế tiền trong tài khoản của khách hàng đã bị trừ, do vậy cà thẻ nhiều lần dẫn đến số tiền khách hàng bị trừ nhiều lần. Khi xảy ra trường hợp này, Th thường dùng điện thoại di động chụp 02 mặt thẻ thanh toán của khách hàng để giải quyết khiếu nại, việc chụp ảnh thẻ thanh toán đều có sự đồng ý cho phép của khách hàng.
Vào khoảng tháng 07/2016, Th được đồng nghiệp tên Nguyễn Phúc H (nhân viên pha chế của Khách sạn H), nhờ chụp và gửi một số ảnh thẻ thanh toán của khách hàng cho H. Trước khi thực hiện, Th hỏi mục đích để làm gì thì H cho biết là để mở tài khoản xem phim, do tin tưởng nên Th đã chụp và gửi cho H khoảng 10 thẻ thanh toán của khách hàng, đồng thời dặn H không làm ảnh hưởng và làm mất tiền trong tài khoản. Tất cả các ảnh chụp thẻ thanh toán của khách hàng phục vụ cho việc giải quyết khiếu nại và ảnh chụp thẻ thanh toán của khách hàng đã gửi cho H nêu trên hiện nay Th không còn lưu trữ.
Nguyễn Phúc H khai nhận được tuyển dụng vào làm nhân viên pha chế tại khách sạn H khoảng tháng 03/2016 đến tháng 07/2016. Trước khi nghỉ việc, H nhờ Tô Châu Ngọc Th chụp và gửi một số hình ảnh thẻ thanh toán của khách hàng cho H, mục đích của H là sử dụng các thông tin ghi trên 02 mặt thẻ thanh toán để thanh toán thẻ cào điện thoại và thẻ game trên các website trực tuyến, gồm: https://www.baokim.vn của Công ty cổ phần thương mại B; www.vng.com.vn của Công ty V; https://vnpay.vn của Công ty cổ phần giải pháp thanh toán N. Tổng cộng Th đã gửi và H đã sử dụng 08 thông tin thẻ thanh toán của các bị hại Đặng Hồng N, Liêu Hà Tr, Nguyễn Giang Thu Trần Ý N, Thái Bá D, Michael L, Tô Phước S, Nguyễn Ngọc Gia B, chiếm đoạt tổng số tiền 17.995.162 đồng.
Tại Bản án số: 151/2019/HS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc H 02 (hai) năm về tội “Sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Ngày 11/11/2019, bị cáo Nguyễn Phúc H có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Phúc H giữ nguyên nội dung kháng cáo như đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa phần hình phạt của bản án sơ thẩm, áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Luật sư Nguyễn Hữu Thống bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phúc H trình bày: Hành vi phạm tội của bị cáo H có dấu hiệu gian dối để có được thông tin thẻ thanh toán của khách hàng từ chị Tô Châu Ngọc Th nên có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với giá trị tài sản chiếm đoạt là 17.995.162 đồng, do đó cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo. Trường hợp xét xử bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án 06 (sáu) tháng tù.
Bị cáo không tham gia tranh luận và không bào chữa bổ sung gì thêm Đại diện Viện kiểm sát đối đáp quan điểm bào chữa của luật sư:
Hành vi phạm tội của bị cáo H không có yếu tố gian dối do chị Tô Châu Ngọc Th không phải là chủ thẻ, việc bị cáo sử dụng thiết bị di động đăng nhập các website trực tuyến và sử dụng thông tin thẻ của các bị hại để mua và thanh toán trái phép thẻ game và thẻ điện thoại là đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, nên phải áp dụng điểm b khoản 2 Điều 290 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo H.
Các bên còn đưa ra một số quan điểm đối đáp, tranh tụng nhưng tất cả đều bảo lưu quan điểm như đã trình bày.
Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc H về nội dung quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Phúc H tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định:
Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2016 đến tháng 7/2016, khi đang làm nhân viên pha chế tại Khách sạn H, Nguyễn Phúc H đã lợi dụng sự tin tưởng của chị Tô Châu Ngọc Th để thu thập hình ảnh chứa thông tin thẻ thanh toán của 08 khách hàng sử dụng dịch vụ thẻ thanh toán của Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương V. Sau khi có được thông tin in trên thẻ, H đăng nhập các website thanh toán trực tuyến của Công ty cổ phần Thương mại B, Công ty V và Công ty Cổ phần giải pháp thanh toán N lựa chọn loại giao dịch mua thẻ game hoặc thẻ cào điện thoại di động rồi nhập đầy đủ 16 ký tự số in tại mặt trước và 03 ký tự in mặt sau của thẻ để hệ thống chấp nhận thanh toán và tự động trừ tiền dựa trên mệnh giá thẻ game hoặc thẻ cào mà H đã mua. Với phương thức, thủ đoạn trên, H đã chiếm đoạt của 08 bị hại tổng số tiền 17.995.162 đồng. Bản án sơ thẩm số: 151/2019/HS-ST ngày 01-11-2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lập luận trên đây cũng là căn cứ bác bỏ quan điểm của vị luật sư đề nghị xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc H, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Mặc dù, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng mức hình phạt 02 (hai) năm tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là có phần nặng. Bởi, trước thời điểm khởi tố vụ án, bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền 30.000.000 đồng để khắc phục hậu quả là thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, quá trình điều tra, truy tố xét xử bị cáo giữ thái độ thành khẩn khai báo. Mặt khác, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng tại khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nhưng vẫn đảm bảo tác dụng giáo dục, răn đe và phù hợp với nguyên tắc xử lý người phạm tội quy định tại Điều 3 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phúc H và sửa Bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 290; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Phúc H 01 (một) năm tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Bị cáo Nguyễn Phúc H không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 141/2020/HS-PT ngày 05/03/2020 về tội sử dụng mạng máy tính, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 141/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về