TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 141/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 240/2019/TLST-HNGĐ ngày 19/3/2019, về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 448/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/6/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn : Anh Trương Nguyễn Duy T, sinh năm 1984 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện H, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1987 (vắng mặt)
Địa chỉ: Khóm A, phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Anh Trương Nguyễn Duy T trình bày: Anh và chị Q chung sống với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn ngày 27/12/2013, tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi vã nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Nay nhận thấy tình cảm không còn, anh và chị Q đã không còn sống chung nhà từ tháng 7 năm 2018 đến nay. Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Q.
Về con chung: Trong thời gian chung sống anh và chị Q có một người con chung là Trương Nguyễn Kiến V, sinh ngày 17/7/2014. Hiện con chung đang sống với chị Q, khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con.
Tại phiên tòa anh T xác định, do chị Q yêu cầu được nuôi con nên anh T đồng ý giao con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, anh và chị Q tự thỏa thuận về mức cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh T xác định không có nợ.
* Chị Nguyễn Thị Q trình bày: Chị Q và anh T chung sống với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn ngày 27/12/2013, tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau. Trong quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi vã nhau, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Nay anh T yêu cầu ly hôn chị đồng ý.
Về con chung: Trong thời gian chung sống chị và anh T có một người con chung là Trương Nguyễn Kiến V, sinh ngày 17/7/2014. Hiện con chung đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về phần hôn nhân: Anh T và chị Q chung sống với nhau năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C đúng theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp và được pháp luật công nhận và bảo vệ. Do có phát sinh mâu thuẩn trong cuộc sống vợ chồng nên anh T và chị Q không còn sống chung nhà từ tháng 7 năm 2018 đến nay. Anh Tha xác định mâu thuẫn của anh và chị Q phát sinh ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được nên anh T yêu cầu ly hôn với chị Q. Chị Q thống nhất yêu cầu của anh T về việc xin ly hôn.
Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa anh T và chị Q đã mâu thuẫn là thực tế và anh chị đã không sống chung nhà. Xét thấy hôn nhân của anh, chị đã mâu thuẫn kéo dài, cả anh T và chị Q đều không có hướng khắc phục, Tòa án đã tạo điều kiện để anh chị hòa giải đoàn tụ nhưng chị Q vẫn vắng mặt không có lý do nên không thể hàn gắn được mối quan hệ vợ chồng của anh chị. Xét mâu thuẫn vợ chồng anh chị ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh T là phù hợp.
[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống anh T và chị Q có một người con chung là Trương Nguyễn Kiến V, sinh ngày 17/7/2014. Hiện con chung đang sống với chị Q, khi ly hôn anh T đồng ý giao con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng theo yêu cầu của chị Q, việc cấp dưỡng nuôi con anh T và chị Q tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy con chung của anh chị còn nhỏ, hiện đang sống cùng với chị Q, để tránh sự xáo trộn trong cuộc sống của cháu nên cần tiếp tục giao con chung cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng theo yêu cầu của anh T và chị Q, không đặc ra việc cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.
Người không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[3] Về tài sản chung: không có.
[4] Về nợ chung: không nợ nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Nguyễn Duy T Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Trương Nguyễn Duy T về việc xin ly hôn chị Nguyễn Thị Q.
Về con chung: Giao con chung là Trương Nguyễn Kiến V, sinh ngày 17/7/2014 cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, không đặc ra việc cấp dương nuôi con.
Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, anh Trương Nguyễn Duy T phải nộp, ngày 19/3/2019, anh T có nộp tạm ứng 300.000 đồng (theo biên lai số 0002224) tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, được chuyển thu án phí.
Các trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ được giao nhận hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 141/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về xin ly hôn
Số hiệu: | 141/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về