TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 141/2017/HSST NGÀY 19/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 140/2017/HSST ngày 29 tháng 8 năm 2017, đối với bị cáo:
Ngô T; sinh ngày 29 tháng 9 năm 1995 tại Bắc Kạn;
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Kạn;chỗ ở: Đường A, phường B, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.
Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá 9/12; con ông Ngô L và bà Nguyễn H; có vợ là Hoàng T và 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: 01 về hành vi trộm cắp tài sản (Bản án số76/2014/HSST ngày 19/11/2014); bị bắt tạm giam từ ngày 01/6/2017 đến nay. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 10 giờ 50 phút, ngày 01 tháng 6 năm 2017, tại khu vực tượng đài Hoàng Văn Thụ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Ngô T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,154 gam chất ma túy Heroine.
Tại Kết luận giám định số 228/KL-PC54 ngày 05 tháng 6 năm 2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có trọng lượng 0,154 gam (đã trừ bì).
Tại Bản cáo trạng số 148/KSĐT-MT, ngày 28 tháng 8 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, đã truy tố bị cáo Ngô T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý", theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Ngô T thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, cụ thể: Ngô T nghiện chất ma túy từ tháng 5/2017. Khoảng 10 giờ ngày 01 tháng 6 năm 2017, T ngồi uống nước ở Chợ Chi Lăng, thì có một nam thanh niên không quen biết cùng ngồi uống nước tại quán rủ góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. T đồng ý và góp 40.000 đồng, người thanh niên góp 160.000 đồng, T cầm tiền và thuê xe ôm chở đến khu vực cầu Phố Muối, phường Tam Thanh, mua 02 gói ma túy với giá 200.000 (hai trăm nghìn) đồng với một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ. Sau khi mua được ma túy, T dấu 01 gói ma túy vào ốp điện thoại OPPO, 01 gói ma túy cầm trong tay và đi xe ôm về chỗ thanh niên cùng góp tiền mua ma túy. Khi đi đến khu vực tượng đài Hoàng Văn Thụ thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ 02 gói ma túy, 02 bơm kim tiêm VINAHANKOOK, 02 lọ nước cất NOVOCAIN và 01 điện thoại di động OPPO màu trắng.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Ngô T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999; áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không cótài sản. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự; Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu hóa giá sung quỹ 01 điên thoại di động OPPO màu trắng. Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy; 02 bơm kim tiêm VINAHANKOOK, 02 lọ nước cất NOVOCAIN. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,
XÉT THẤY
Tại phiên tòa ngày hôm nay lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 10 giờ 50 phút, ngày 01 tháng 6 năm 2017, tại khu vực tượng đài Hoàng Văn Thụ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Ngô T đã cóhành vi tàng trữ trái phép 0,154 gam chất ma túy Heroine, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy", theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , xâm phạm đến chinh sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, là nguyên nhân của nhiều tội phạm và tệ nạn xã hội liên quan đến ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nhằm phục vụ lợi ích bất hợp pháp của bản thân, do đó hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm minh.
Xét bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã một lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới, điều đó cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo. Vì vậy, Hội đồng xét xử, xét thấy cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án về hành vi trộm cắp tài sản, tại Bản án số 76/2014/HSST ngày 19/11/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.
Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm, thấp hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là cao, chưa phù hợp với nhận định tại phần luận tội là áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội. Do đó, khi nghị án Hội đồng xét xử sẽ xem xét, cân nhắc một hình phạt phù hợp cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạtbổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông đã góp tiền mua ma túy và người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh, nhưng không làm rõ được để xử lý cùng vụ án.
Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu hóa giá sung quỹ 01 điện thoại di động OPPO màu trắng, bị cáo sử dụng để cất dấu ma túy. Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêmphong đựng mẫu vật là chất ma túy do Nhà nước cấm lưu hành; 02 bơm kim tiêm VINAHANKOOK, 02 lọ nước cất NOVOCAIN không có giá trị.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Ngô T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều48 Bộ luật Hình sự năm 1999; áp dụng khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7;khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Ngô T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/6/2017.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động OPPO màutrắng, số IMEI. 867663020190119, cũ đã qua sử dụng.
- Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định (chứa chất ma túy); 02 bơm kim tiêm VINAHANKOOK; 02 lọ nước cất NOVOCAIN 3%.
(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28 tháng 8 năm 2017)
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Ngô T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 141/2017/HSST ngày 19/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 141/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về