TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 140/2020/HSST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2020/TLST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Văn L; sinh năm 1972 tại tỉnh Nam Định; hộ khẩu thường trú: N, tỉnh Nam Định; nơi ở: C, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn Q và bà: Lê Thị X; tiền án: ngày 19-6-2013 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 39 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 09-02-2018 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 18 tháng tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”; tiền sự: không; nhân thân: ngày 16-01-1996 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, ngày 15-10-1996 Tòa án nhân dân tỉnh Nam Hà xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, tổng hợp với bản án ngày 16-01-1996, Vũ Văn L phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 21 tháng tù, ngày 24-4-2000 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, ngày 21-6- 2002 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 21 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, ngày 24-8-2004 Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đều đã được xóa án tích); ngày 20-9-2017 Công an phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; đã được xóa án tiền sự; bị bắt, tạm giữ ngày 24-12-2019, chuyển tạm giam ngày 02- 01-2020; có mặt.
Người làm chứng: Ông Bùi Văn T, ông Tống Tư V (không triệu tập tham gia phiên tòa); vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24-12-2019, tổ công tác Công an phường Thống Nhất, thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Vũ Văn L đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 18KA-1324 tại khu vực trước cửa số nhà 36 đường Trần Thái Tông, phường Thống Nhất, thành phố Nam Định. Quá trình kiểm tra, thu giữ trong túi quần bên phải của L 01 lớp ni lông bọc ngoài của vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có 03 gói giấy bạc màu trắng, mở kiểm tra 03 gói giấy bạc màu trắng thì bên trong đều chứa bột dạng cục màu trắng, L khai là 03 gói Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa L cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật, ngoài ra còn tạm giữ của L chiếc xe máy biển kiểm soát 18KA-1324.
Bản Kết luận giám định số 1226/GĐKTHS ngày 30-12-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 gói giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, tổng khối lượng mẫu: 0,198 (không phẩy một trăm chín mươi tám) gam.
Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn L khai: Khoảng 13 giờ ngày 24-12-2019, L mượn xe máy biển kiểm soát 18KA-1324 của ông Vũ Văn Quang và bà Lê Thị Xuân (là cha mẹ đẻ của bị cáo) đi từ nhà đến khu vực gầm cầu Đò Quan thành phố Nam Định gặp và mua của một người phụ nữ (không lai L, địa chỉ) 03 gói Heroine với số tiền 150.000 đồng mục đích để sử dụng. L cầm gói ma túy bỏ vào lớp ni lông bọc ngoài vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi cất vào túi quần bên trái đang mặc rồi đi đến khu vực trước cửa số nhà 36 đường Trần Thái Tông, phường Thống Nhất, thành phố Nam Định thì bị Công an bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 88/CT-VKSTPNĐ ngày 16 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Vũ Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Vũ Văn L khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24-12-2019, bị cáo Vũ Văn L bị Công an phường Thống Nhất thành phố Nam Định bắt quả tang cất giấu trong túi quần bên trái 03 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong đều chứa bột dạng cục màu trắng, L khai là 03 gói Heroine mua để sử dụng cho bản thân. Bản Kết luận giám định số 1226/GĐKTHS ngày 30-12-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 03 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, khối lượng mẫu: 0,198 (không phẩy một trăm chín mươi tám) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý; bị cáo có tiền án đã tái phạm chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm”. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị kết án, đã được xóa án tích và bị xử phạt vi phạm hành chính đã được xóa tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 18KA-1324 thuộc quyền sở hữu của bà Lê Thị Xuân, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lê Thị Xuân là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Vũ Văn L 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 24-12-2019.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 1226/GĐKTHS (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).
3. Án phí: Bị cáo Vũ Văn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 140/2020/HSST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 140/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về