Bản án 140/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 140/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 143/2019/HSST ngày 12/11/2019 đối với các bị cáo:

1. Võ Trường A - sinh ngày 15/4/1997, tại Quảng Trị; Giới tính: Nam Nơi cư trú: Số 30 đường N, Khu phố I, phường Đ, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông: Võ Văn X (Sinh năm: 1960) và bà Phan Thị T (sinh năm: 1960) đều còn sống.

Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/6/2019; tạm giữ ngày 25/6/2019; tạm giam từ ngày 04/7/2019; hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Hồ Đức D - sinh ngày 29/8/1997; tại Quảng Trị; Giới tính: Nam

Nơi cư trú: Thôn P, xã C, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông: Nguyễn Đức M (Sinh năm: 1974) và bà Hồ Thị T (sinh năm: 1976) đều còn sống.

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ, con. Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 22/10/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tại Bản án số 10/2018/HSPT; chấp hành xong hình phạt ngày 12/4/2019.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/6/2019; tạm giữ ngày 25/6/2019; tạm giam ngày 04/7/2019; hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên toà.

3. Nguyễn Văn T - sinh ngày 07/11/2000; tại Quảng Trị; Giới tính: Nam

Nơi cư trú: Đội 9, Thôn A, xã C, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12;

Con ông: Nguyễn Ngọc L (Sinh năm: 1974) và bà Nguyễn Thị Q (sinh năm: 1973) đều còn sống.

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/6/2019; tạm giữ ngày 25/6/2019; tạm giam ngày 04/7/2019; hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên toà.

4. Nguyễn Văn K - sinh ngày 29/10/1997; tại Quảng Trị; Giới tính: Nam

Nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 10/12;

Con ông: Nguyễn Văn K (Sinh năm: 1967) và bà Lê Thị T (sinh năm:

1967) đều còn sống.

Gia đình bị cáo là con duy nhất; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 25/6/2019; tạm giữ ngày 25/6/2019; tạm giam ngày 04/7/2019; hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Ngô Quang T - sinh năm: 1998; Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Chổ ở: Số 06 đường N, phường H, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng; Vắng mặt.

+ Anh Lê Quang S, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị; Chổ ở: Chùa T, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn T - sinh năm: 1977- Đại diện hộ kinh doanh Mua, bán các loại xe máy đã qua sử dụng; Địa chỉ: Số 06 đường T, Khu phố T, phường 01, TP Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

+ Ông Phan Thanh L - sinh năm: 1988 - Đại diện hộ kinh doanh Mua, bán xe máy cũ; Địa chỉ: Số 92A đường P, phường T, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Chị Phan Thị M, sinh năm: 1972; Địa chỉ: Đội 5 Thôn H, xã V, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1954. Địa chỉ: Tổ 46 phường V, quận Thanh Khê, Tp Đà Nẵng. Vắng mặt.

2. Ông Phan Thanh T, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Tổ 06 phường V, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Vắng mặt.

3. Ông Ngô Tất Sơn H, sinh năm: 1980. Địa chỉ: Số 42 đường T, phường T, quận Hải Châu, TP Đà Nẵng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng cuối tháng 5/2019 Võ Trường A, Nguyễn Văn T và Nguyễn Hồ Đức D thống nhất, bàn bạc mua ma túy về để bán lại kiếm lời, A là người bỏ tiền mua ma túy còn D và T đi mua ma túy về bán. A trả tiền thuê phòng ở, ăn uống chi tiêu và sử dụng ma túy chung. Sau đó A đi ra Quảng Trị mua ma túy giá trung bình 1 viên/ 15.000đồng (A không xác định được mua của ai, số lượng ma túy là bao nhiêu). Trong số ma túy mua về A và T đã bán cụ thể như sau:

- Lần 1: Vào khoảng cuối tháng 5/2019 tại đường C, thành phố Đà Nẵng, T bán cho Ngô Quang T 02 viên ma túy hồng phiến với số tiền 270.000đồng. Thu lợi bất chính 240.000đồng.

- Lần 2: Vào đầu tháng 6 năm 2019 (không rõ thời gian cụ thể) tại nhà trọ 472 đường N, thành phố Đà Nẵng, A bán cho K 10 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. Thu lợi bất chính 350.000đồng.

- Lần 3: Cách lần thứ hai khoảng vài ngày (không xác định được thời gian cụ thể), tại nhà trọ 472 đường N, thành phố Đà Nẵng, A bán cho K 10 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. Thu lợi bất chính 350.000đồng.

- Lần 4: Khoảng ngày 10/6/2019 (không rõ thời gian cụ thể) tại đường T, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể) T bán cho T 01 viên ma túy hồng phiến với số tiền 130.000đồng. Thu lợi bất chính 115.000đồng.

- Lần 5: Vào tối ngày 22/6/2019 A bán cho K 20 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. K nhờ người tên P (không rõ nhân thân lai lịch) đến Phòng 302 nhà nghỉ Lusa gặp A lấy ma túy. Thu lợi bất chính 700.000đồng.

- Lần 6: Khoảng 10 giờ ngày 23/6/2019 A bán cho Lê Quang S 2 viên ma túy hồng phiến với số tiền 100.000 đồng tiền S chuyển cho A qua tài khoản Momo (không xác định được số tài khoản), A đưa 02 viên ma túy cho 1 nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch – là shiper) đem đến cho Sông tại nhà trọ 472 đường N, thành phố Đà Nẵng. Thu lợi bất chính 70.000đồng.

- Lần 7: sáng ngày 23/6/2019 A bán cho K 10 viên/ 500.000đồng. (giá 50.000đồng/1 viên) K đưa cho A 1.000.000 đồng và nợ lại 1.000.000 đồng mà K đã mua ma túy trước đó của A. Thu lợi bất chính 350.000 đồng.

K sử dụng hết 4 viên ma túy hồng phiến. Khoảng 20 giờ ngày 25/6/2019 có một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua của K 6 viên ma túy hồng phiến thì K đồng ý bán với giá 100.000đồng/1 viên và thống nhất địa điểm mua bán ma túy tại số 77 đường L, thành phố Đà Nẵng. K cất giấu 06 viên ma túy hồng phiến trong vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse để vào trong túi quần K đang mặc rồi K điều khiển xe mô tô hiệu AirBlade biển kiểm soát 43D1- 37257 đến ngã ba đường T– L thuộc phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để ăn tối. Khi vào quán, K lấy gói thuốc lá bên trong đựng 06 viên ma túy hồng phiến để trên ghế nhựa gần vị trí K ngồi để chờ bán cho người thanh niên mua ma túy nhưng chưa bán được thì bị Đội CSĐT tội phạm về Ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Thu giữ của K 01 gói thuốc lá hiệu White Horse bên trong có 6 viên nén hình trụ tròn màu đỏ, được niêm phong ký hiệu G.

Lần 8: Đối với A, D và T sau khi bán hết số ma túy đã mua trước đó. Vào ngày 23/6/2019 tại Phòng 302 nhà nghỉ Lusa số 112/154 đường T, phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Hồ Đức D, Võ Trường A và Nguyễn Văn T bàn bạc tiếp tục mua 2.500.000đồng ma túy về để bán. Sau khi thống nhất, Võ Trường A liên lạc và chuyển trước qua tài khoản game cho một người tên M (không rõ nhân thân lai lịch) số tiền 1.000.000 đồng để mua ma túy và đưa Nguyễn Hồ Đức D số tiền 1.500.000 đồng. Sau đó D và T đón xe khách đi ra thị trấn L, tỉnh Quảng Trị để mua ma túy hồng phiến, còn A ở lại nhà nghỉ Lusa.

Đến rạng sáng ngày 25/6/2019 D và T gặp và mua của M 180 viên ma túy hồng phiến rồi trả số tiền 1.500.000đồng còn lại. Sau đó D và T đem ma túy hồng phiến mua được của M về Đà Nẵng. Đến 15 giờ cùng ngày, D và T về đến phòng 302 Nhà nghỉ Lusa, T đưa gói ma túy có 180 viên cho A cất giữ. A phân chia ma túy hồng phiến ra trung bình mỗi gói 10 viên, A để 11 viên ma túy hồng phiến vào trong ví của A ở trên giường, 100 viên bỏ trong túi áo khoác treo ở móc và 62 viên ma túy hồng phiến trong bao thuốc lá hiệu 555 ở trên giường. A, D và T sử dụng hết 05 viên ma túy hồng phiến.

Đến khoảng 20 giờ ngày 25/6/2019 A đưa cho T 02 viên bán cho T với giá 250.000đồng. Thu lợi bất chính 220.000đồng.

Khoảng 23 giờ 00 cùng ngày, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kiểm tra Phòng 302 nhà nghỉ Lusa bắt quả tang Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D và Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác treo ở móc có 100 viên nén hình trụ tròn màu đỏ (do A cất vào) được niêm phong ký hiệu G2; thu giữ trong vỏ bao thuốc lá hiệu 555 có 62 viên nén hình trụ tròn, được niêm phong ký hiệu G1, thu giữ trong ví của A có 11 viên nén hình trụ tròn được niêm phong ký hiệu G3 của A, D, T chưa sử dụng và bán được.

Việc Võ Trường A bán ma túy hồng phiến cho K thì Nguyễn Hồ Đức D biết và tham gia bán ma túy với A nhiều lần, bán cho nhiều người (nhưng D không nhớ cụ thể những lần nào và không rõ nhân thân, lai lịch).

Như vậy, từ cuối tháng 5 năm 2019 đến ngày 25/6/2019 A, D và T đã tổ chức mua 235 viên ma túy hồng phiến. A đã 4 lần bán cho K 50 viên ma túy và bán cho S 1 lần 2 viên ma túy. T đã 3 lần bán cho T 05 viên ma túy. Tổng số tiền thu lợi bất chính là: 2.395.000đồng, A, T, D tiêu xài, ăn uống chung.

* Theo bản kết luận giám định số 187/GĐ-MT, ngày 02 tháng 7 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: 06 viên nén hình trụ tròn màu đỏ trong bì niêm phong ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu G: 0,599gam.

Theo bản kết luận giám định số 190/GĐ-MT, ngày 04 tháng 7 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: các viên nén trong các bì niêm phong ký hiệu G1 (G11, G12), G2, G3 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng các viên nén G11: 0,205gam; G12: 5,916gam; G2: 9,828gam; G3: 1,091gam.

- Khối lượng ma túy thu giữ của Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D và Nguyễn Văn T G1 (G11, G12), G2, G3 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng các viên nén G11: 0,205gam; G12: 5,916gam; G2: 9,828gam; G3: 1,901gam; thu giữ của Nguyễn Văn K ký hiệu G gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu G: 0,599gam (là ma túy A bán cho K). Tổng khối lượng ma túy mà A, D, T dùng để bán là: G11+G12+G2+G3+G: 0,205gam + 5,916gam + 9,828gam + 1,091gam + 0,599gam= 17,639gam ma túy loại Methamphetamine.

* Ngoài ra còn thu giữ:

- Thu giữ của K:

+ 01 ĐTDĐ hiệu Iphone, số imei: 354434062422210, gắn sim số: 0333237667 (K dùng để liên lạc cá nhân và liên lạc mua bán ma túy) + Số tiền 100.000đồng (tiền cá nhân của K)

+ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse (K dùng để đựng ma túy).

+ 01 xe môtô hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-37257, số khung: 050926, số máy: 2074054 xe do ông Ngô Phước L đứng tên chủ sở hữu nhưng ông L đã bán nhà đi đâu không rõ. Vào khoảng giữa tháng 3/2019 ông L bán xe trên cho cửa hàng mua bán xe cũ L do ông Nguyễn Ngọc L đứng tên giấy phép kinh doanh. Ngày 07/4/2019 K mua lại xe trên tại cửa hàng mua bán xe cũ L nhưng K chưa làm thủ tục sang tên.

- Thu giữ của D:

+ 01 ĐTDĐ có chữ LG, số imei:3524370950621, gắn sim số 0842587357 (Dũng dùng để liên lạc mua bán ma túy).

- Thu giữ của A:

+ 01 ĐTDĐ có chữ HuaWei, số imei: 867907030182370, gắn sim số 0344725655 và 01 ĐTDĐ có chữ Nokia, số imei: 358957/01/326276/0, gắn sim số 0362825655 (A dùng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy).

- Thu giữ của T:

+ 01 ĐTDĐ có chữ Iphone, số imei: 355394079788822, gắn sim số 0823687974. (T dùng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy).

+ 01 ĐTDĐ có chữ Iphone màu trắng, số imei: 352042062709809, gắn sim số: 0366374197(của nam thanh niên mua ma túy thế chấp lại cho Thành).

+ 01 xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74H2-7702, số khung: 089880, số máy: 089880 xe do bà Phan Thị M đứng tên chủ sở hữu đầu tháng 4 năm 2018 bà M bán xe trên cho cửa hàng mua bán xe cũ T do ông Nguyễn Văn T đứng tên giấy phép kinh doanh. Ngày 29/7/2018 T mua lại xe trên tại cửa hàng mua bán xe cũ T nhưng T chưa làm thủ tục sang tên. T sử dụng xe trên để làm phương tiện mua bán ma túy. An) Ngoài ra còn thu giữ tại Phòng 302 nhà nghỉ Lusa :

- 01 ví da màu nâu, có chữ Jeep-Blau, 01 áo Jean màu đen (tài sản của - 01 bình nhựa có gắn 01 ống hút nhựa (A, D, T dùng để sử dụng ma túy)

- 01 gói thuốc lá 555.

Hiện các vật chứng trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Riêng xe môtô hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-37257, số khung: 050926, số máy: 2074054 hiện đang lưu giữ tại Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Qua thử nước tiểu Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K đều dương tính với ma tuý.

Quá trình điều tra Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại cáo trạng số 144/CT-VKS, ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm a, b, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; bị cáo Nguyễn Văn K về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa giữ nguyên nội dung quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm a, b, i khoản 2 Điều 251, điểm s, r khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Võ Trường A từ 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng đến 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm a, b, i khoản 2 Điều 251, điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hồ Đức D từ 09 (chín) năm đến 10 (mười) năm tù.

Áp dụng điểm a, b, i khoản 2 Điều 251, điểm s, r khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị HĐXX tịch thu sung quỹ nhà nước gồm:

+ Của bị cáo K: 01 ĐTDĐ hiệu Iphone, số imei: 354434062422210, gắn sim số: 0333237667 Khánh dùng để liên lạc mua bán ma túy.

+ Của bị cáo D: 01 ĐTDĐ có chữ LG, số imei:3524370950621, gắn sim số 0842587357 do D dùng để liên lạc mua bán ma túy.

+ Của bị cáo A: 01 ĐTDĐ có chữ HuaWei, số imei: 867907030182370, gắn sim số 0344725655 và 01 ĐTDĐ có chữ Nokia, số imei: 358957/01/326276/0, gắn sim số 0362825655 do An dùng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy. + Của bị cáo T: 01 (một) ĐTDĐ có chữ Iphone, số imei: 355394079788822, gắn sim số 0823687974 do T dùng để liên lạc cá nhân và mua bán ma túy; 01 ĐTDĐ có chữ Iphone màu trắng, số imei: 352042062709809, gắn sim số: 0366374197 của nam thanh niên mua ma túy thế chấp lại cho T; 01(một) xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74H2- 7702, số khung: 089880, số máy: 089880 xe do bà Phan Thị M đứng tên chủ sở hữu, T mua lại xe trên tại cửa hàng mua bán xe cũ T nhưng T chưa làm thủ tục sang tên. T sử dụng xe trên để làm phương tiện mua bán ma túy.

- Tuyên tiêu hủy gồm:

+ Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 187/GĐ-MT ngày 02/7/2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng của vụ án.

+ Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 190/GĐ-MT ngày 04/7/2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng của vụ án.

+ 01 (một) gói bao thuốc là hiệu White Horse;

+ 01 (một) ví da màu nâu, có chữ Jeep-Blau;

+ 01 (một) bình nhựa có gắn 01 ống hút nhựa;

+ 01 (một) áo Jean màu đen;

+ 01 (một) gói bao thuốc là 555;

Những vẫn chứng trên đều có liên quan đến vụ án và không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Khánh số tiền 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng) vì không liên quan đến vụ án.

- Riêng xe môtô hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-37257, số khung: 050926, số máy: 2074054 hiện đang lưu giữ tại Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

- Đối với Nguyễn Hồ Đức D, Võ Trường A, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng pháp luật.

- Đối tượng tên M (không rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho D, A, T và P (không rõ lai lịch) có hành vi lấy giúp ma túy cho K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

- Đối với Công ty TNHH một thành viên T (tên địa điểm kinh doanh vi phạm Nhà nghĩ Lusa - Công ty TNHH một thành viên T do Lê Hà Thiên T đại diện theo pháp luật đã thực hiện hành vi hành chính "Người chủ hoặc người có trách nhiệm quản lý nhà hàng, cơ sở cho thuê lưu trú, để cho người khác lợi dụng sử dụng chất ma túy trong khu vực mình quản lý". UBND quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đã biết được những sai trái của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người liên quan không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra cũng như tranh tụng tại phiên tòa, các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Căn cứ vào biên bản phạm tội quả tang và lời khai nhận tội của các bị cáo, lời khai của người liên quan; người làm chứng phù hợp với các chứng cứ, tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, xác định:

[3] Từ cuối tháng 5/2019 đến ngày 25/6/2019 Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D và Nguyễn Văn T bàn bạc, tổ chức mua ma túy về để bán kiếm lời. A T và D đã 2 lần ra Lao Bảo, Quảng Trị mua 235 viên ma túy hồng phiến về bán lại kiếm lời. Khoảng 23 giờ 00 ngày 25/6/2019, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kiểm tra Phòng 302 nhà nghỉ Lusa bắt quả tang Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D và Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi áo khoác treo ở móc có 100 viên nén hình trụ tròn màu đỏ (do A cất vào) được niêm phong ký hiệu G2; thu giữ trong vỏ bao thuốc lá hiệu 555 có 62 viên nén hình trụ tròn, được niêm phong ký hiệu G1, thu giữ trong ví của A có 11 viên nén hình trụ tròn được niêm phong ký hiệu G3 của A, D, T tàng trữ với mục đích bán cho người khác nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang.

[4] Đối với Nguyễn Văn K vào ngày 23/6/2019 mua của A 10 viên ma túy, K đem về sử dụng hết 4 viên. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày K điều khiển xe mô tô hiệu AirBlade biển kiểm soát 43D1-37257 đem 6 viên ma túy hồng phiến đến ngã ba đường T - L thuộc phường V, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để chờ bán cho người thanh niên mua ma túy trước đó nhưng chưa bán được thì bị Đội CSĐT tội phạm về Ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang.

[5] Theo kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Đà Nẵng thì tổng khối lượng ma túy mà A, D, T dùng để bán là: 17,639gam ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng ma túy K dùng để bán là 0,599gam ma túy loại Methamphetamine. Ngoài lần bắt phạm tội quả tang nêu trên thì Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T còn khai nhận: Khoảng cuối tháng 5/2019 cho đến ngày bị bắt quả tang A, D, T đã bàn bạc, thống nhất ra Quảng Trị mua ma túy về bán kiếm lời. Sau đó A đi ra Quảng Trị mua ma túy giá trung bình 1 viên 15.000 đồng (A không xác định được mua của ai, khối lượng ma túy là bao nhiêu) trong số ma túy A mua về A và T đã bán 08 lần, cụ thể như sau:

- Lần 1: Vào khoảng cuối tháng 5/2019 tại đường C, thành phố Đà Nẵng, T bán cho Ngô Quang T 02 viên ma túy hồng phiến với số tiền 270.000đồng. Thu lợi bất chính 240.000đồng.

- Lần 2: Vào đầu tháng 6 năm 2019 (không rõ thời gian cụ thể) tại nhà trọ 472 đường N, thành phố Đà Nẵng, A bán cho K 10 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. Thu lợi bất chính 350.000đồng.

- Lần 3: Cách lần thứ hai khoảng vài ngày (không xác định được thời gian cụ thể), tại nhà trọ 472 đường N, thành phố Đà Nẵng, A bán cho K 10 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. Thu lợi bất chính 350.000đồng.

- Lần 4: Khoảng ngày 10/6/2019 (không rõ thời gian cụ thể) tại đường T, thành phố Đà Nẵng (không rõ địa chỉ cụ thể) T bán cho T 01 viên ma túy hồng phiến với số tiền 130.000đồng. Thu lợi bất chính 115.000 đồng.

- Lần 5: Vào tối ngày 22/6/2019 A bán cho K 20 viên ma túy hồng phiến với giá 50.000đồng/1 viên. Thu lợi bất chính 700.000đồng.

- Lần 6: Khoảng 10 giờ ngày 23/6/2019 A bán cho Lê Quang S 2 viên ma túy hồng phiến với số tiền 100.000 đồng. Thu lợi bất chính 70.000đồng.

- Lần 7: Sáng ngày 23/6/2019 A bán cho K 10 viên/500.000đồng. (giá 50.000đồng/1viên) K đưa cho A 1.000.000 đồng và nợ lại 1.000.000đồng mà K đã mua ma túy trước đó của A. Thu lợi bất chính 350.000 đồng.

Lần 8: Khoảng 20 giờ ngày 25/6/2019 A đưa cho T 02 viên bán cho T với giá 250.000đồng. Thu lợi bất chính 220.000đồng.

Như vậy, tổng số tiền thu lợi bất chính do A, T, D bán ma túy có được là 2.395.000 đồng.

[6] Quá trình điều tra, người liên quan Ngô Quang T, Lê Quang S và tại phiên tòa bị cáo K đều thừa nhận có mua ma túy của A, T, T các lần như đã nêu trên là đúng. Các bị cáo A, D, T khi thực hiện hành vi mua bán ma túy đều có sự bàn bạc, phân công, tổ chức cụ thể; khi người hỏi mua ma túy trực tiếp từ ai thì người đó bán và các lần bán ma túy cả ba bị cáo đều biết, số tiền thu lợi bất chính các bị cáo đều chi tiêu chung, các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên và khối lượng Methamphetamine mà các bị cáo mua bán từ 05 gam đến dưới 30 gam.

[7] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thuộc trường hợp định khung tăng nặng "phạm tội có tổ chức" quy định tại điểm a khoản 2; "Phạm tội hai lần trở lên" quy định tại điểm b khoản 2; "Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam" quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn K phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 144/CT-VKS, ngày 11/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh khê đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo có tính chất rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quy định của nhà nước về quyền quản lý các chất ma tuý, gây mất ổn định tình hình trật tự trị an xã hội, ảnh hưởng đến sức khoẻ, lao động, học tâp của con người, đây là loại tội phạm gây nguy hại lớn và là nguyên nhân làm phát sinh tệ nạn xã hội, là mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Chính tác hại đó mà pháp luật nghiêm cấm và nghiêm khắc trừng trị loại tội phạm này.

[9] Xét vai trò của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo A là người khởi xướng, rủ rê, bỏ tiền ra mua ma túy, liên lạc tìm người mua ma túy, chuyển tiền cho người bán để T và D đi lấy ma túy, đồng thời cũng là người trực tiếp bán ma túy cho các con nghiện. Vì vậy, A phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án này. Về nhân thân bản thân chưa có tiền án tiền sự.

[10] Nguyễn Hồ Đức D mặc dù không phải là người rủ rê nhưng cũng là đối tượng tham gia tích cực, trực tiếp bàn bạc để cùng T ra Thị Trấn Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị lấy ma túy từ một người tên M (không rõ nhân thân lai lịch), tất cả những lần A bán ma túy cho người khác D đều biết. Vì vậy, đối với D cũng phải được xử lý nghiêm nhưng mức hình phạt thấp hơn bị cáo A là có căn cứ.

[11] Đối với Nguyễn Văn T sau khi được A khởi xướng bàn bạc thì T cũng đồng ý và trực tiếp cùng với D đi lấy ma túy từ Quảng Trị và bán cho các con nghiện. T tham gia với vai trò thứ yếu, có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự nên mức hình phạt thấp hơn bị cáo A và D là phù hợp pháp luật.

[12] Bị cáo K là người mua ma túy của các bị cáo A, D, T về sử dụng và bán lại cho người khác nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang. Khối lượng ma túy Methamphetamine mà Khánh dùng để bán là 0,599 gam.

[13] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo thì thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo A, D, T, K đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho cả 04 bị cáo; bị cáo A, T, D đã tự khai ra các lần bán ma túy khác nên cũng giảm nhẹ một phần hình phạt cho cả ba bị cáo theo điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với D đã từng có một tiền án vào ngày 22/10/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 06 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" tại Bản án số 10/2018/HSPT chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, để lo tu dưỡng rèn luyện trở thành công dân tốt, mà tiếp tục phạm tội mới, lần phạm tội này thuộc trường hợp "tái phạm" cần phải tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Về nhân thân, bị cáo A, T, K đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử cũng sẽ cân nhắc xem xét cho bị cáo khi lượng hình.

[14] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định "Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ một năm đến năm năm" hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo A, T, D, K tại phiên tòa đều cho thấy trước khi phạm tội các bị cáo đều làm đầu bếp, phục vụ ở nhà hàng. Tuy nhiên khi lao vào con đường nghiện ma túy thì nghề nghiệp không ổn định, không có thu nhập; Bị cáo K là lao động phổ thông, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp. [15] Từ những phân tích trên, xét đề nghị của đại diện VKS nhân dân quận Thanh khê về tội danh cũng như đề nghị về mức hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[16] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 187/GĐ-MT ngày 02/7/2019 và một bì niêm phong số 190/GĐ-MT ngày 04/7/2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng của vụ án của vụ án nên cần tiêu hủy.

- 01 (một) gói bao thuốc là hiệu White Horse; 01 (một) ví da màu nâu, có chữ Jeep-Blau; 01 (một) áo Jean màu đen (của bị cáo An); 01 (một) bình nhựa có gắn 01 ống hút nhựa; 01 (một) gói bao thuốc là 555 đều có liên quan đến vụ án và không còn giá trị sử dụng nên cần tiêu hủy.

- 01 ĐTDĐ hiệu Iphone, số imei: 354434062422210, gắn sim số: 0333237667 của K;

- 01 ĐTDĐ có chữ LG, số imei:3524370950621, gắn sim số 0842587357 của D;

- 01 ĐTDĐ có chữ HuaWei, số imei: 867907030182370, gắn sim số 0344725655 và 01 ĐTDĐ có chữ Nokia, số imei: 358957/01/326276/0, gắn sim số 0362825655 của A;

- 01 (một) ĐTDĐ có chữ Iphone, số imei: 355394079788822, gắn sim số 0823687974 của T;

- 01 ĐTDĐ có chữ Iphone màu trắng, số imei: 352042062709809, gắn sim số: 0366374197 của nam thanh niên mua ma túy thế chấp lại cho T.

Tất cả 06 (sáu) điện thoại nêu trên đều do các bị cáo dùng để liên lạc mua, bán ma túy nên cần sung vào ngân sách nhà nước.

- 01(một) xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74H2-7702, số khung: 089880, số máy: 089880 xe do bà Phan Thị M đứng tên chủ sở hữu, T mua lại xe trên tại cửa hàng mua bán xe cũ T nhưng T chưa làm thủ tục sang tên. T sử dụng xe trên để làm phương tiện mua bán ma túy nên cũng được sung quỹ nhà nước là phù hợp.

- Số tiền thu lợi bất chính mà các bị cáo A, D, T bán ma túy có được là 2.395.000 đồng nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước, chia đều cho 03 bị cáo, mỗi bị cáo phải nộp số tiền 798.333 đồng.

- Số tiền 100.000 đồng, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định, đây là số tiền cá nhân của bị cáo K nên cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng được tiếp tục quỹ trữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án.

- Riêng xe môtô hiệu Honda AirBlade, biển kiểm soát 43D1-37257, số khung: 050926, số máy: 2074054 xe do ông Ngô Phước L đứng tên chủ sở hữu nhưng ông L đã bán nhà đi đâu không rõ. Vào khoảng giữa tháng 3/2019 ông L bán xe trên cho cửa hàng mua bán xe cũ L do ông Nguyễn Ngọc L đứng tên giấy phép kinh doanh. Ngày 07/4/2019 K mua lại xe trên tại cửa hàng mua bán xe cũ L nhưng K chưa làm thủ tục sang tên hiện đang lưu giữ tại Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, đề nghị Công an quận Thanh Khê để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau. [17] Đối với Nguyễn Hồ Đức D, Võ Trường A, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt hành chính là đúng pháp luật.

[18] Đối tượng tên M (không rõ lai lịch) có hành vi bán ma túy cho D, A, T và P (không rõ lai lịch) có hành vi lấy giúp ma túy cho K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[19] Đối với Công ty TNHH một thành viên T (tên địa điểm kinh doanh vi phạm Nhà nghĩ Lusa - Công ty TNHH một thành viên T do Lê Hà Thiên T đại diện theo pháp luật đã thực hiện hành vi hành chính "Người chủ hoặc người có trách nhiệm quản lý nhà hàng, cơ sở cho thuê lưu trú, để cho người khác lợi dụng sử dụng chất ma túy trong khu vực mình quản lý". UBND quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật. đồng.

[20] Án phí Hình sự sơ thẩm các bị cáo phải chịu, mỗi bị cáo 200.000

Vì các lẽ trên; 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn K phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

- Căn cứ điểm a, b, i khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Võ Trường A 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt phạm tội quả tang, ngày 25/6/2019.

- Căn cứ điểm a, b, i khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Hồ Đức D 09 (chín) năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt phạm tội quả tang, ngày 25/6/2019.

- Căn cứ điểm a, b, i khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 08 (tám ) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt phạm tội quả tang, ngày 25/6/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn K 03 (ba) năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt phạm tội quả tang, ngày 25/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

2.1. Sung vào ngân sách Nhà nước: - 01 ĐTDĐ hiệu Iphone, số imei: 354434062422210, gắn sim số:

0333237667 của bị cáo K;

- 01 ĐTDĐ có chữ LG, số imei:3524370950621, gắn sim số 0842587357 của bị cáo D;

- 01 ĐTDĐ có chữ HuaWei, số imei: 867907030182370, gắn sim số 0344725655 và 01 ĐTDĐ có chữ Nokia, số imei: 358957/01/326276/0, gắn sim số 0362825655 của bị cáo A;

- 01 (một) ĐTDĐ có chữ Iphone, số imei: 355394079788822, gắn sim số 0823687974 của bị cáo T;

- 01 ĐTDĐ có chữ Iphone màu trắng, số imei: 352042062709809, gắn sim số: 0366374197 của nam thanh niên mua ma túy thế chấp lại cho T.

- 01(một) xe môtô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 74H2-7702, số khung: 089880, số máy: 089880 xe do bà Phan Thị M đứng tên chủ sở hữu.

- Buộc các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải nộp số tiền thu lợi bất chính là 798.333 đồng (Bảy trăm chín mươi tám ngàn ba trăm ba mươi ba đồng) để sung vào Ngân sách nhà nước.

2.2. Tiêu hủy:

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 187/GĐ-MT ngày 02/7/2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong một bì niêm phong số 190/GĐ-MT ngày 04/7/2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 (một) gói bao thuốc là hiệu White Horse;

- 01 (một) ví da màu nâu, có chữ Jeep-Blau;

- 01 (một) bình nhựa có gắn 01 ống hút nhựa;

- 01 (một) áo Jean màu đen;

- 01 (một) gói bao thuốc là 555;

2.3. Trả lại cho Nguyễn Văn K số tiền 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng) nhưng được tiếp tục quy trữ để đảm bảo cho nghĩa vụ thi hành án.

(Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/11/2019 và Biên lai thu tiền số 7265, ngày 12/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Võ Trường A, Nguyễn Hồ Đức D, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn K mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:140/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về