Bản án 140/2019/HSST ngày 11/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 140/2019/HSST NGÀY 11/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/ HSST ngày 09 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/ 2019/ QĐXX – HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Chu Ngọc M; Giới tính: Nam; Sinh năm 1992; ĐKHKTT:Tổ 09 thị trấn K, huyện V, tỉnh Lào Cai; Tạm trú: Phòng 1214 X, phường Y, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Chu Đức Q; Con bà : Phạm Thị Ngọc K; Tiền án, tiền sự: Không; Theo Danh chỉ bản số 000000062 ngày 04/01/ 2019 do Công an quận Cầu Giấy lập; Bị bắt quả tang ngày 23/12/2018; hủy bỏ biện pháp tạm giữ ngày 01/01/2019; Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Họ và tên: Nguyễn Tiến Đ; Giới tính: Nam; Sinh năm 1993; ĐKHKTT: Tổ 04, phường Đ, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Tạm trú: Phòng 1214 X, phường Y, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn An Đ; Con bà : Phạm Bích N; Tiền án, tiền sự: Không; Theo Danh chỉ bản số 000000063 ngày 04/ 01/ 2019 do Công an quận Cầu Giấy lập; Bị bắt quả tang ngày 23/12/2018; Hủy bỏ biện pháp tạm giữ ngày 01/01/2019; Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt tại phiên tòa.

# Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Hà Hải Q, sinh năm 1993; Trú tại: Khu N I, xã S, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 05 phút ngày 23 tháng 12 năm 2018, Tổ công tác Đội CSĐTTP về ma túy Công an quận Cầu Giấy làm nhiệm vụ tại trước số 06 ngõ 92 N, phường Q, quận C, Hà Nội phát hiện bắt quả tang Chu Ngọc M điều khiển xe máy Honda Wave S, BKS: 11B1 - 037.19 chở Nguyễn Tiến Đ có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy với Hà Hải Q (Sinh năm: 1993; Trú tại: Khu N I, xã S, huyện T, tỉnh Phú Thọ). Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi áo khoác ngoài bên trái Đ đang mặc: 01 túi nilon kích thước khoảng 15x20 cm chứa thảo mộc khô. Tại chỗ, Đ khai là ma túy cần sa, Đ và M mang đi bán cho Q nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ. Tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ, niêm phong tang vật, đưa Đ, M và Q về trụ sở để làm rõ.

Ngoài ra, Cơ quan Công an còn thu giữ của thu giữ của Nguyễn Tiến Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 4 màu vàng, số sim 0889.599.093; 01 cân điện tử màu bạc trong cốp xe máy BKS: 11B1 - 037.19 và 500.000 đồng tiền Việt Nam. Thu giữ của Chu Ngọc M: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s, số sim 0911.199.968; 01 xe máy Honda Wave S, BKS: 11B1 - 037.19. Thu giữ của Hà Hải Q: số tiền 2.000.000 đồng; 01 điện thoại di động Oppo màu trắng có sim 0355.143.091.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ và M tại Phòng 1214 Xuân Mai Complex, phường Yên Nghĩa, Hà Đông, Hà Nội, Cơ quan công an không phát hiện thu giữ đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định số 9725/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - CATP Hà Nội, kết luận: Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilong là cần sa, khối lượng: 53, 536 gam; 01 cân điện tử màu bạc có dính cần sa.

Tại Cơ quan điều tra, Chu Ngọc M khai nhận: Nguyễn Tiến Đ và Chu Ngọc M là anh em họ cùng ở tại Phòng 1214 X, phường Y, quận H, Hà Nội. Do cần tiền để trả chi phí sinh hoạt hàng ngày nên Đ và M rủ nhau mua ma túy cần sa về để bán. Sau đó, M lập tài khoản Facebook “Hất Cùn” để bán ma túy cần sa trên mạng. Tối ngày 22/12/2018, M nhận được tin nhắn của Hà Hải Q từ tài khoản Facebook “Rồng Lửa” hỏi mua 50 gam ma túy cần sa. M trao đổi với Đ và cùng đồng ý bán 50 gam ma túy cần sa với giá 8.500.000 đồng và hẹn gặp tại ngõ 92 N, C, Hà Nội để giao dịch mua ma túy. Sau đó, M nhắn tin đến tài khoản Facebook “Nguyen Lan P” của một người tên P (M không rõ nhân thân lai lịch, địa chỉ của P) hỏi mua 50 gam ma túy cần sa với giá 5.000.000 đồng. P đồng ý và hẹn gặp tại ngõ 167 T, quận H, Hà Nội để mua bán ma túy. Khoảng 14h, ngày 23/12/2018, M điều khiển xe máy, BKS: 11B1: 03719 chở Đ đến gặp P. Tại ngõ 167 T, Đ đưa P số tiền 5.000.000 đồng và nhận 01 túi nilong ma túy cần sa. Đ cầm túi ma túy cần sa giấu vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc rồi cùng M đến ngõ 92 N, quận C, Hà Nội để bán ma túy. Khi đến nơi, Đ dùng số điện thoại 0889594093 gọi đến số 0355143091 của Q bảo Q ra lấy ma túy nhưng chưa kịp trao đổi mua bán ma túy thì Đ, M và Q bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ cùng tang vật như đã nêu trên.

Xét nghiệm nước tiểu của Nguyễn Tiến Đ, Chu Ngọc M cho kết quả dương tính với ma túy.

Lời khai của Nguyễn Tiến Đ, Hà Hải Q phù hợp với lời khai của Chu Ngọc Mvà các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Đối với đối tượng có tài khoản Facebook tên “Nguyen Lan P” bán ma túy cần sa, Đ và M không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể. Tra cứu thông tin số điện thoại 035.3333.999 của P tại Tập đoàn Công nghiệp - Viễn Thông Quân Đội không xác định được thông tin của chủ thuê bao nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh làm rõ.

Đối với Hà Hải Q là đối tượng đi mua ma túy về sử dụng nhưng chưa mua được thì bị bắt nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Q về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Xét nghiệm nước tiểu của Hà Hải Q cho kết quả dương tính với ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã ra thông báo về địa phương hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Q để quản lý và giáo dục.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave S, BKS: 11B1 – 037.19, có số khung: 215966; số máy: 4308655. Tra cứu tại Cơ quan cảnh sát giao thông thành phố Hà Nội, xe không có trong dữ liệu xe máy vật chứng, đăng kí xe mang tên ông Nguyễn T (Sinh năm: 1959; ĐKHKTT: Tổ 04 phường S, Thành phố C, tỉnh Cao Bằng). Ông T khai: mua chiếc xe máy trên và đăng ký từ ngày 13/9/2012. Sau đó, ông T cho con gái là chị Nguyễn Thị Huyền T (Sinh năm: 1995; ĐKHKTT: Tổ 04, phường S, Thành phố C, tỉnh Cao Bằng) để làm phương tiện đi lại. Chị T khai: ngày 23/12/2018, chị T cho M mượn để sử dụng công việc cá nhân, việc M dùng xe chở bạn đi bán ma túy, chị T không biết. Quá trình điều tra, xác định chiếc xe máy trên là tài sản của ông T, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Cầu Giấy đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho ông T.

Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu trắng có sim 0355.143.091 thu giữ của Hà Hải Q, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s thu giữ, số sim 0911.199.968 của Chu Ngọc M, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 4 màu vàng, số sim 0889.599.093 thu giữ của Nguyễn Tiến Đ, xác định là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Hà Hải Q là tiền Q dùng để mua ma túy cần sa. Số tiền 500.000 đồng là tài sản của Đ, không liên quan đến vụ án.

Đối với chiếc cân điện tử màu bạc có dính cần sa thu giữ của Đ là chiếc cân Đ và M cùng mua, dùng để cân ma túy cần sa.

Tại bản cáo trạng số 134/CT-VKSCG ngày 02/5/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy truy tố Chu Ngọc M, Nguyễn Tiến Đ về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị xử phạt Chu Ngọc M từ 24 đến 30 tháng tù; Nguyễn Tiến Đ từ 24 đến 30 tháng tù; Miễn phạt tiền; Tịch thu tiêu hủy 01 gói nilong bên trong có 53,536 gam thảo mộc cần sa và cân điện tử có dính cần sa; Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu trắng có sim 0355.143.091, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu ghi, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 4 màu vàng thu giữ của bị cáo M, Đ và Q.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Q.

Trả lại cho bị cáo Đ số tiền 500.000 đồng.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy. Các bị cáo thấy mình có tội và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền,trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, qua xét hỏi các bị cáo đã khai nhận tội. Xét lời khai của cỏc bị cáo thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản phạm tội quả tang,báo cáo bắt giữ, lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,vật chứng thu được của vụ án. Đồng thời căn cứ vào bản kết luận giám định số 9725/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hà Nội. Đủ cơ sở kết luận Khoảng 16 giờ 05 phút ngày 23 tháng 12 năm 2018, Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Cầu Giấy phát hiện bắt quả tang Chu Ngọc M và Nguyễn Tiến Đ có hành vi tàng trữ trái phép 53, 536 gam ma túy cần sa (thảo mộc khô) mục đích để bán cho Hà Hải Q nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ tại trước số 06 ngõ 92 N, phường Q, quận C, Hà Nội. Hành vi của các bị cáo Chu Ngọc M, Nguyễn Tiến Đ đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, xâm hại đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc. Cần sa là loại ma túy nhà nước ta nghiêm cấm tàng trữ, sử dụng, mua bán, bản thân bị cáo là người đó trưởng thành, nhận thức được tác hại của cần xa và đường lối xử lý của pháp luật đối với tội phạm về ma túy nhưng vì mục đích kiếm lời vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm bị cáo thực hiện là loại tội nghiêm trọng. Xét đến vai trò của từng bị cáo: Bị cáo M là người lập tài khoản và là người trực tiếp giao dịch với người mua người bán ma túy, Đ là người trực tiếp tàng trữ ma túy trong người.Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải có một mức hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một khoảng thời gian nhất định để trừng trị đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá điều tra, truy tố, xét xử, hội đồng xét xử xem xét, cỏc bị cỏo cú thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nhân thân chưa tiền án, tiền sự, lượng ma túy cần sa bị cáo tàng trữ để bán tương đối ít để áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm cho cỏc bị cáo một phần hình phạt.

[5]Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có công việc ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền

[6]Vật chứng thu giữ của vụ án là ma túy cần sa cần, 01 cân điện tử màu bạc cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 điện thoại di động Oppo màu trắng có sim 0355.143.091 thu giữ của Hà Hải Q; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s thu giữ, bên trong có sim thu giữ của Chu Ngọc M; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 4 màu vàng, số sim 0889.599.093 thu giữ của Nguyễn Tiến Đ là phương tiện dùng để liên lạc mua bán ma túy cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Hà Hải Q là tiền dùng để mua ma túy cần sa cần tịch thu sung công.

Số tiền 500.000 đồng là tài sản của Đ, không liên quan đến vụ án trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên!

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chu Ngọc M, Nguyễn Tiến Đ phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

*Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt:

- Chu Ngọc M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/12/2018 đến ngày 01/01/2019.

- Nguyễn Tiến Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/12/2018 đến ngày 01/01/2019.

* Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nilong bên trong có 53,536 gam thảo mộc cần sa và cân điện tử có dính cần sa.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Oppo màu trắng có sim 0355.143.091; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6s màu ghi, bên trong có sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Note 4 màu vàng, bên trong có sim .

Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 2.000.000 đồng.

Trả lại cho bị cáo Đ số tiền 500.000 đồng.

(Tại biên bản giao nhận vật chứng số 176/ GN/THA- CA ngày 07/5/2019 của chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 07/5/2019 tại kho bạc nhà nước Cầu Giấy số tài khoản 3949 mã ĐVQHNS: 1049179).

* Áp dụng: Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí.

- Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến trực tiếp quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2019/HSST ngày 11/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:140/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về