Bản án 140/2017/HSST ngày 19/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP. ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 140/2017/HSST NGÀY 19/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 138/2017/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

TRẦN THỊ KIM O; Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1978 tại tỉnh N.

Nơi ĐKHKTT: Xã H, huyện L, tỉnh N.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 16, phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng. Trình độ văn hóa: 9/12 ; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Quốc tịch: N; Dân tộc: K; Tôn giáo: Không.

Con ông: Trần Văn H (SN : 1957) và bà Đặng Thị T (SN: 1956); gia đình có bốn chị em, bị cáo là con lớn nhất.

Bị cáo có chồng: Võ Trọng D (SN : 1966), có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang được tại ngoại theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 66 ngày 10-8-2017 của Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng; có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Phạm Thị Thu T; Sinh năm: 1984; HKTT và chỗ ở hiện nay: 96 đường N, tổ 146, phường A, quận K, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 19-6-2017, trong lúc chăm con tại Trung T y tế quận K, thành phố Đà Nẵng, chị Phạm Thị Thu T có sạc một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 màu vàng đồng, ốp lưng màu hồng tại phòng bệnh khoa Nhi. Lợi dụng lúc chị T ngủ trưa, trong phòng bệnh không có ai chú ý nên Trần Thị Kim O lén lút trộm cắp điện thoại của chị T rồi đem cất giấu ở cốp xe máy của mình để ở bãi giữ xe bệnh viện. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, chị T phát hiện bị mất trộm điện thoại nên có hỏi về việc có lấy điện thoại hay không nhưng O không thừa nhận. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, chị T đến Công an phường Đ, quận K trình báo sự việc. Sau đó, anh Huỳnh Ngọc M (chồng chị T) chở O đến Công an phường Đ làm việc thì O đã thừa nhận hành vi lấy trộm điện thoại của chị T cho anh M biết, O nói anh M chở O quay lại bệnh viện để trả lại điện thoại trộm cắp.

Qua điều tra, Trần Thị Kim O đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7.

Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Thanh Khê, xác định điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 có giá trị là 4.200.000đ (Bốn triệu, hai trăm ngàn đồng).

Vào ngày 24-6-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã trả lại điện thoại trên cho chị Phạm Thị Thu T. Chị T không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Theo bản cáo trạng số 135/QĐ-KSĐT ngày 17 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Trần Thị Kim O về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim O phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 138, Điểm b, g, h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Về trách nhiệm dân sự và tang vật vụ án đã giải quyết xong nên không đề cập đến.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, tòa diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định:

Vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 19-6-2017, tại phòng bệnh khoa Nhi Trung tâm y tế quận K, thành phố Đà Nẵng, Trần Thị Kim O đã lén lút trộm cắp một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 có giá trị là 4.200.000đ (Bốn triệu, hai trăm ngàn đồng) của chị Phạm Thị Thu T.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Trần Thị Kim O đã cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê truy tố đối với bị cáo Trần Thị Kim O là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi chiếm đoạt tài sản của Trần Thị Kim O xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ sức khỏe, có việc làm và thu nhập ổn định nhưng vì không kiềm chế được lòng tham nhất thời của mình đã lợi dụng sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản của họ. Hội đồng xét xử thấy phải quyết định một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm mục đích răn đe, giáo dục.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản, khắc phục hậu quả cho người bị hại, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người bị hại lại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm b, g, h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét bị cáo có lý lịch, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo giản đơn nên HĐXX thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cân nhắc cho bị cáo được áp dụng Điều 6 Bộ luật hình sự để được hưởng án treo, nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được lao động, tự cải tạo.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị Thu T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường  gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định.

Xét các đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm Sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim O phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng Khoản 1 Điều 138, Điểm b, g, h, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim O 06 (sáu) tháng tù; nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 19 tháng 12 năm 2017.

Giao bị cáo Trần Thị Kim O cho Uỷ ban nhân dân phường G, quận K, thành phố Đà Nẵng giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Trần Thị Kim O phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

3.  Người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các điều 6,7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 140/2017/HSST ngày 19/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:140/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về