Bản án 139/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 139/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn N, huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 139/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 196/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu H, sinh ngày 11/7/1986 tại thành phố H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố H; Nơi cư trú: số Đ, thị trấn N, huyện T, thành phố H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; Chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Quyết định số 309/QĐ-TA ngày 14/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Hữu H trong thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 07/9/2019; Nhân thân: - Bản án số 122/HSST ngày 22/9/2008 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 15 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 tháng tính từ ngày tuyên án (đã xóa án tích), - Bản án số 22/HSST ngày 07/9/2012 của Tòa án nhân dân huyện C, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành án xong ngày 28/4/2014 (đã xóa án tích); Bị tạm giữ từ ngày 24/7/2020 đến ngày 30/7/2020 chuyển tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Văn B - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; địa chỉ: số D, phường Q, quận K, thành phố H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 24/7/2020, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp Công an thị trấn N làm nhiệm vụ đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Hữu H đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho các đối tượng Nguyễn Văn T sinh năm 1988 ở thôn C, xã A, huyện T và Nguyễn Văn Q sinh năm 2002 ở thôn B, xã T, huyện T tại nơi ở của Nguyễn Hữu H tại số Đ, thị trấn N, huyện T. Thu giữ của H số tiền 470.000 đồng (trong đó có 100.000 đồng là tiền vừa bán ma túy cho T và Q), 01 điện thoại di động Iphone màu ghi gắn sim số 0898.255.436. Thu giữ tại túi quần đang mặc của T 01 gói giấy vở học sinh bên trong chứa chất bột màu trắng, 01 điện thoại di động Nokia màu đen gắn sim số 0973.596.291 và 100.000 đồng. Tổ công tác đã đưa H, T, Q cùng vật chứng về trụ sở Công an thị trấn N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Hữu H không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu H khai: Do bản thân nghiện ma túy nên H nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng cho bản thân và bán lại cho các đối tượng nghiện khác kiếm lời. Loại ma túy H sử dụng và bán là Heroine. H mua của người phụ nữ không quen biết ở khu vực đường tàu quận L, thành phố H. Giá ma túy H bán là 200.000 đồng/gói. Địa điểm H bán ma túy là tại nơi ở của mình. Cách thức H và những đối tượng nghiện giao dịch mua bán ma túy là liên lạc qua điện thoại hoặc người mua trực tiếp đến nhà H trao đổi. H nhiều lần bán ma túy cho nhiều người nhưng không nhớ chính xác thời gian, số lượng, người mua ma túy của mình. H chỉ nhớ, trong khoảng thời gian từ ngày 23/7/2020 đến ngày 24/7/2020 đã bán ma túy cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 09 giờ 30 ngày 23/7/2020, H bán cho T và Q 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng.

Lần thứ hai: Khoảng 16 giờ 15 ngày 23/7/2020, H bán cho T và Hoàng Phú Tr sinh năm 1991 ở thôn B, xã C, huyện T 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng.

Lần thứ ba: Khoảng 17 giờ 45 ngày 23/7/2020, H bán cho Q và Lại Văn H sinh năm 1992 ở thôn C, xã T, huyện T 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng.

Lần thứ tư: Khoảng 08 giờ 45 ngày 24/7/2020, H bán cho T và Q 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng nêu trên. Lý do H bán gói Heroine này với giá 100.000 đồng là do H đã sử dụng 1/2 gói, còn lại bán cho T và Q.

Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng nghiện mua ma túy của Nguyễn Hữu H gồm: Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Phú Tr và Lại Văn H đều khai phù hợp với lời khai của H như nội dung nêu trên. Các đối tượng đều chung tiền, đi cùng nhau mua ma túy để sử dụng chung. T và Q là những người trực tiếp liên lạc với H qua điện thoại để giao dịch mua ma túy; Tr và H đi cùng T, Q mua ma túy và chứng kiến việc H trao đổi ma túy, nhận tiền với T, Q.

Tại bản Kết luận giám định số 455 ngày 26/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng thu của Nguyễn Văn T là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,01 gam.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong số 455/2020/PC09 chứa vỏ bao bì còn lại sau giám định; 02 chiếc điện thoại di động (01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu ghi gắn sim số 0898.255.436 của H, 01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0973.596.291 của T) và số tiền 570.000 đồng chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H quản lý.

Bản Cáo trạng số 04/CT-VKSTN ngày 11 tháng 12 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H đã truy tố Nguyễn Hữu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo các điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Hữu H khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H từ 10 năm đến 11 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 455/2020/PC09 chứa vỏ bao bì còn lại sau giám định; Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng (01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu ghi gắn sim số 0898.255.436 và 01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0973.596.291) là phương tiện bị cáo H và đối tượng nghiện dùng để liên lạc trong việc mua bán ma túy; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 570.000 đồng (trong đó 470.000 đồng thu của bị cáo H do phạm tội mà có và 100.000 đồng thu của Nguyễn Văn T dùng để mua ma túy); Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 230.000 đồng của bị cáo H là tiền bị cáo thu lợi bất chính, về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu H thuộc hộ cận nghèo có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bảo chữa: Đồng ý với Cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo và gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo được chính quyền địa phương xác nhận, cha bị cáo mất sớm, mẹ bị cáo cao tuổi thường xuyên ốm đau bệnh tật, hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, bị cáo trình độ học vấn thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, chính vì vậy đã dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ là bị cáo thuộc hộ cận nghèo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét, áp dụng mức hình phạt thấp nhất đối với bị cáo. Bị cáo thuộc đối tượng người nghèo, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo thuộc trường hợp được miễn án phí nên kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Bị cáo Nguyễn Hữu H đã có hành vi bán trái phép 04 lần chất ma túy là Heroine cho các đối tượng Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Phú Tr và Lại Văn H vào các ngày 23, 24/7/2020, mỗi lần bán 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng, lần thứ tư bán 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng bị bắt quả tang ngày 24/7/2020. Với hành vi nêu trên bị cáo Nguyễn Hữu H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với 02 người trở lên” theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật bảo vệ, vi phạm Luật phòng chống ma túy, vì vậy cần phải xử lý nghiêm.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Đối với đề nghị của người bào chữa về việc cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là người phạm tội thuộc hộ cận nghèo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận. Bị cáo H là đối tượng nghiện ma túy, có một tiền sự chưa được xóa và có nhân thân xấu đã từng hai lần bị kết án thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị cáo H không có việc làm ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong số 455/2020/PC09 chứa vỏ bao bì còn lại sau giám định được xác định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy; 02 điện thoại di động đã qua sử dụng (01 chiếc nhãn hiệu Iphone màu ghi gắn sim số 0898.255.436 của bị cáo H và 01 chiếc nhãn hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0973.596.291 của Nguyễn Văn T) là phương tiện bị cáo và đối tượng nghiện dùng để liên lạc trong việc mua bán trái phép ma túy nên cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước; số tiền 570.000 đồng (trong đó gồm 470.000 đồng thu của bị cáo H do phạm tội mà có và 100.000 đồng thu của Nguyễn Văn T dùng để mua ma túy) nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 230.000 đồng của bị cáo H là tiền thu lợi bất chính do phạm tội mà có.

[7]. Đối với các đối tượng Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Q, Hoàng Phú Tr và Lại Văn H là những người mua ma túy của Nguyễn Hữu H để sử dụng, do lượng ma túy công an thu giữ của Nguyễn Văn T không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, cơ quan công an không thu giữ được ma túy của Q, Tr, H; về nhân thân các đối tượng T, Q, Tr, H đều chưa có tiền án về các tội ma túy, chưa bị xử lý hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên Công an huyện T đã xử lý hành chính đối với các đối tượng trên là đúng pháp luật. Trong vụ án này, còn có đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Hữu H, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở để điều tra.

[8]. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo được xác nhận của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 09 (Chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 24/7/2020.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 455/2020/PC09 chứa vỏ bao bì còn lại sau giám định; tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động đã qua sử dụng (01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu ghi gắn sim số 0898.255.436 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen gắn sim số 0973.596.291); tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 570.000 đồng (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản và Phiếu nhập kho số NK2021/29 ngày 11/12/2020, Biên lai thu tiền số 0000834 ngày 11/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H). Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 230.000 đồng của bị cáo Nguyễn Hữu H.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Hữu H.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:139/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về