Bản án 139/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TP - TỈNH BT

BẢN ÁN 139/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện TP, Tỉnh BT xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 154/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Phạm Thị Thu Ng., sinh năm 1994 tại Tỉnh BT.

Hộ khẩu thường trú: Khu phố 10, thị trấn LH, Huyện TP, Tỉnh BT; Chỗ ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hùng Trang, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị Gái, sinh năm 1968; có chồng Huỳnh Quốc Miên (đã ly hôn), có 01 (một) con sinh năm 2013; chung sống như vợ chồng với Nguyễn Ngọc Khánh Tú, sinh năm 1986 (đang chấp hành án) có 01 (một) con sinh ngày 28/4/2018.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 13/8/2020, có mặt.

2. Thông Văn T, sinh năm 1998 tại Tỉnh BT.

Hộ khẩu thường trú: Khu phố 01, thị trấn LH, Huyện TP, Tỉnh BT; Chỗ ở: Thôn Phú Điền, xã Phú Lạc, Huyện TP, Tỉnh BT; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: Lớp xóa mù chữ; dân tộc: Chăm; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Th Văn Minh, sinh năm 1968 và bà Phạm Thị Diễm (chết); chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 13/8/2020, có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Thanh B, sinh năm 1964; (vắng mặt)

+ Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1966; (vắng mặt) + Anh Trần Th, sinh năm 1998; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T có quan hệ tình cảm với nhau nên ngày 11/8/2020 cả hai thống nhất thuê phòng trọ tại nhà trọ Thanh Bình ở khu phố 06, thị trấn LH để ở chung. Tối cùng ngày, Ng. lấy 01 gói ma túy đá mà Ng. mua trước đó cùng Tsử dụng chung. Ngày 12/8/2020, Ng. mua của một người tên M1 (không rõ nhân thân, lai lịch) một gói ma túy đá với giá là 1.000.000 đồng với mục đích để sử dụng. Đến khuya, Ng. lấy một ít ra sử dụng, phần còn lại Ng. phân chia tiến hành 12 gói nhỏ, bỏ vào gói ny lon cất giấu trong phòng trọ. Khoảng 07 giờ, ngày 13/8/2020, Trần Th nhắn tin qua tài khoản facebook của Thông Văn T hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, hỏi Ng., Ng. đồng ý bán nên T nhắn tin cho Th hẹn địa điểm giao ma túy và nhờ Th mua giùm một gói thuốc Jet, 2.000 đồng nước đá. Ng. mang 02 gói ma túy đá đến điểm hẹn giao cho Th, nhận 274.000 đồng từ Th sau khi trừ tiền mua thuốc Jet và nước đá.

Khoảng 10 giờ, ngày 13/8/2020, tổ công tác Công an thị trấn LH phối hợp cùng đội phòng chống ma túy và tội phạm Đồn biên phòng cửa khẩu cảng Liên Hương Tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ số 02 nhà trọ Thanh Bình phát hiện bắt quả tang Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiến hành thu giữ tại phòng trọ 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá, bên trong nỏ thủy tinh có chất tinh thể màu trắng, 01 cân tiểu ly; thu giữ trên thanh hộp mái tol nhà vệ sinh trong phòng trọ 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu, một mặt có hình chữ màu đỏ, kích thước (06 x 10)cm, bên trong chứa 10 gói nylon có chứa chất tinh thể màu trắng, kích thước mỗi gói (01 x 04)cm; thu giữ trong khay đựng đồ trang điểm để trên bàn 10 miếng nylon không màu có kích thước không giống nhau, 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu kích thước (04 x 05)cm bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài 10cm; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng và số tiền 1.059.000 đồng (Một triệu không trăm năm mươi chín nghìn đồng), trong đó có 274.000 đồng thu được từ bán ma túy; thu giữ của T01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng.

Kết luận giám định số 908/KLGĐ-PC09 ngày 21/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh BT, kết luận: Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,1455 gam, là Methamphetamine; mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,8389 gam, là Methamphetamine.

Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T khai nhận là người nghiện ma túy, vào ngày 12/8/2020, Ng. có mua 1.000.000 đồng ma túy đá phân chia tiến hành nhiều gói nhỏ với mục đích để dành sử dụng. Ngày 13/8/220, Ng. và Tcó bán cho Trần Th 02 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Sau đó thì bị Công an phát hiện và lập biên bản thu giữ.

Về tang, vật chứng của vụ án: Thu giữ của Phạm Thị Thu Ng. số tiền 1.059.000 đồng và nộp vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự Huyện TP theo biên lai thu tiền số 0002534 ngày 09/11/2020; đầu nỏ thủy tinh và 0,0946 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 908/1; các gói nylon và 0,3353 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 908/2; 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá không có nỏ thủy tinh; 10 miếng nylon không màu có kích thước không giống nhau; 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài 10cm; 01 điện thoại di dộng hiệu Oppo và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng.

Tại Bản Cáo trạng số 155/CT/VKSTP-HS, ngày 25 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện TP đã truy tố Phạm Thị Thu Ng. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 và “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; truy tố Thông Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

-Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện TP giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Khoản 1 Điều 50, Điều 55 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Thị Thu Ng. từ 15 (Mười lăm) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; từ 24 (Hai mươi bốn) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; tổng hợp hình phạt chung từ 39 (Ba mươi chín) tháng đến 48 (Bốn mươi tám) tháng tù.

+ Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, khoản 1 Điều 50 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Thông Văn T từ 24 (Mai mươi bốn) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu sung quỹ số tiền 300.000 đồng là tiền bán ma túy mà có, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di dộng hiệu Samsung màu vàng đồng, là phương tiện mà bị cáo Thông Văn T đã sử dụng trong việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy; tịch thu tiêu hủy đầu nỏ thủy tinh và 0,0946 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 908/1; các gói nylon và 0,3353 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 908/2; 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá không có nỏ thủy tinh, 10 miếng nylon không màu có kích thước không giống nhau; 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài 10cm là các vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Thu Ng. 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 759.000 đồng do không liên quan đến vụ án.

- Các bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện TP đã truy tố. Các bị cáo cho rằng việc truy tố các bị cáo là đúng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện TP, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện TP, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T không có ý kiến, cũng như không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện, đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và biên bản phạm tội quả tang, đã làm rõ: Bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và bị cáo Thông Văn T đều là những đối tượng nghiện ma túy. Do có mối quan hệ tình cảm với nhau và để thuận tiện cho việc sử dụng chung ma túy nên bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và bị cáo Thông Văn T thuê phòng trọ ở chung tại phòng số 02 nhà nghỉ Thanh Bình thuộc khu phố 06, thị trấn LH, Huyện TP. Ngày 12/8/2020, bị cáo Phạm Thị Thu Ng. có mua 1.000.0000 đồng ma túy đá từ một người tên M1 (không rõ nhân thân, lai lịch) với mục đích ban đầu là để sử dụng. Sau khi có ma túy, bị cáo Ng. đã phân chia ma túy tiến hành nhiều gói nhỏ, cất giấu tại nhà vệ sinh trong phòng trọ. Vào lúc 07 giờ, ngày 13/8/2020, bị cáo Phạm Thị Thu Ng. cùng với bị cáo Thông Văn T đã bán 02 gói ma túy cho Trần Th với giá 300.000 đồng. Số ma túy còn lại, bị cáo Ng. cất giữ để dành sử dụng. Vào lúc 10 giờ, ngày 13/8/2020, khi kiểm tra hành chính nhà nghỉ Thanh Bình, lực lượng chức năng đã phát hiện, lập biên bản phạm tội quả tang và đã thu giữ được tại phòng trọ số 02 mà bị cáo Ng. và Tđang lưu trú một lượng chất rắn, nghi là ma túy, Tiến hành niêm phong đưa đi giám định, đã xác định chất rắn trong các gói nylon là Methamphetamine, có khối lượng tổng cộng là 0,9844 gam (Tại bản kết luận giám định số908/KLGĐ-PC09 ngày 21/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh BT). Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Thị Thu Ng. đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015; bị cáo Thông Văn T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Các bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và Thông Văn T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận biết hành vi lén lút mua bán và cất giấu ma túy là xâm phạm đến nguyên tắc quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Methamphetamine là chất gây nghiện, ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh, gây ra ảo giác và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng nhưng do nghiện hút, để thỏa mãn cho nhu cầu của mình mà các bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của các bị cáo rất nguy hiểm, đã tiếp tay cho các tệ nạn xã hội và làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng cho gia đình và cộng đồng dân cư. Vì vậy, cần phải xử lý các bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội để các bị cáo có thời gian tu dưỡng bản thân, học tập và lao động trở tiến hành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Phạm Thị Thu Ng. là người trực tiếp mua ma túy về phân chia tiến hành các gói nhỏ, vừa bán vừa tàng trữ để sử dụng cho bản thân, bị cáo Thông Văn T là người trao đổi trực tiếp với người mua ma túy để thống nhất địa điểm giao ma túy giúp bị cáo Ng. bán một lần 02 tép ma túy đá cho Trần Th. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi mà các bị cáo đã gây ra.

[5] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo tiến hành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 mà các bị cáo sẽ được hưởng khi Hội đồng xét xử xem xét lượng hình. Hội đồng xét xử xét thấy mặc dù các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng các bị cáo là người nghiện ma túy, đây là mối đe dọa lớn cho xã hội và những năm gần đây tội phạm do người nghiện ma túy gây ra ngày một nhiều, dư luận xã hội kịch liệt lên án nên đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ nghiêm khắc khi quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[6] Về tang, vật chứng của vụ án: Tịch thu sung quỹ số tiền 300.000 đồng là tiền bán ma túy mà có, tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di dộng hiệu Samsung màu vàng đồng, là các phương tiện mà các bị cáo đã sử dụng trong việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy; tịch thu tiêu hủy đầu nỏ thủy tinh và 0,0946 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 908/1; các gói nylon và 0,3353 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 908/2; 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá không có nỏ thủy tinh, 10 miếng nylon không màu có kích thước không giống nhau; 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài 10cm là các vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Thu Ng. 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 759.000 đồng do không liên quan đến vụ án.

[7] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với người tên M1 đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Thị Thu Ng., hiện chưa biết được nhân thân lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh xử lý sau là đúng quy định của pháp luật. Đối với hành vi mua ma túy của Trần Th để sử dụng là hành vi không cấu tiến hành tội phạm nên Cơ quan cảnh sát điều tra có Công văn và sao trích hồ sơ chuyển địa phương xử lý hành chính là đúng quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và bị cáo Thông Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 268, Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị Thu Ng. phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “ Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Thông Văn T pham tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 55 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Thu Ng. 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt chung là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 13-8-2020.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Thông Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 13-8- 2020.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 2 và Điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu sung quỹ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) là tiền bán ma túy mà có; tịch thu sung quỹ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng đồng, là phương tiện mà bị cáo Thông Văn T đã sử dụng trong việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy;

+ Tịch thu tiêu hủy 01 đầu nỏ thủy tinh và 0,0946 gam mẫu M1 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 908/1; các gói nylon và 0,3353 gam mẫu M2 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 908/2; 01 cân tiểu ly, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá không có nỏ thủy tinh, 10 miếng nylon không màu có kích thước không giống nhau; 01 gói nylon không màu có nẹp khóa một đầu bên trong không có gì; 01 kéo kim loại dài 10cm là các vật cấm tàng trữ, lưu hành và không còn giá trị sử dụng.

+ Trả lại cho bị cáo Phạm Thị Thu Ng. 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu hồng và số tiền 759.000 đồng (Bảy trăm năm mươi chín nghìn đồng), do không liên quan đến vụ án.

(Tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra với Chi cục thi hành án dân sự ngày 26/11/2020 và Biên lai thu tiền số 0002534 ngày 09/11/2020).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí của Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Thị Thu Ng. và bị cáo Thông Văn T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25-12-2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:139/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về