Bản án 139/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

 BẢN ÁN 139/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 19 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện XM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 386/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 113/2020/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1991 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp PQ, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Bị đơn: Ông Đoàn Văn T, sinh năm: 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp PQ, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/7/2020 bản khai và các biên bản làm việc tiếp theo tại tòa án nguyên đơn – Bà Nguyễn Thị T trình bày:

Bà Nguyễn Thị T xây dựng gia đình với ông Đoàn Văn T vào năm 2009 có đăng ký kết hôn tại UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, được sự đồng ý của hai bên gia đình có tổ chức lễ cưới, trước khi cưới bà T và ông T có tìm hiểu nhau một thời gian, hôn nhân là trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung giữa bà T và ông T hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà T và ông T bất đồng quan điểm, vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên cải vả. bà T và ông T cố gắng khắc phục những mâu thuẫn giữa vợ chồng nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. bà T và ông T ly thân từ năm 2019 cho đến nay, không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T.

- Về con chung: bà T và ông T có 02 con chung tên Đoàn Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 16/02/2011 và Đoàn Nguyễn Anh T, sinh ngày 02/4/2013, hiện các con đang sống với ông T. bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Thư, đồng ý để ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hà, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: bà T và ông T tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập ông Đoàn Văn T đến tham gia hòa giải nhiều lần nhưng ông T vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Do đó Tòa án lập biên bản về việc vắng mặt đương sự không tiến hành hòa giải được để có cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Tại các phiên Tòa ông T đều vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự, nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, còn bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc trước đây cũng như tại các phiên tòa là chưa chấp hành đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu ly hôn và giải quyết con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Thị T yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Đoàn Văn T, đây là quan hệ pháp luật “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn ông Đoàn Văn T có nơi cư trú tại địa bàn huyện XM theo điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Trong quá trình tham gia tố tụng, bà Nguyễn Thị T có đơn xin vắng mặt, ông Đoàn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông T vắng mặt không có lý do. Vì vậy việc xét xử vắng mặt bà T, ông T là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: bà T, ông T xây dựng gia đình vào năm 2009 có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn (Giấy chứng nhận kết hôn số 72, quyển số 01/09 ngày 15/5/2009 tại UBND xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xét đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

bà T và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bà T và ông T bất đồng quan điểm nên thường phát sinh cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, bà T và ông T đã ngồi lại để giải quyết mâu thuẫn nhưng tình hình vẫn không có gì thay đổi. Hiện bà T và ông T đã ly thân từ năm 2019 đến nay không còn quan hệ qua lại gì về mặt tình cảm cũng như kinh tế.

Kết quả xác minh tại địa phương: Do bà T và ông T không hòa giải ở cơ sở nên địa phương không rõ nguyên nhân mâu thuẫn giữa bà T và ông T. Tuy nhiên, hiện nay bà T và ông T không sống chung với nhau là phù hợp với lời trình bày của bà T.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra bà T và ông T phải cùng tìm cách khắc phục những mâu thuẫn của vợ chồng để cuộc sống chung được hạnh phúc và cùng nhau chăm sóc nuôi dạy con cái nhưng từ năm 2019 đến nay bà T và ông T ly thân. Sau khi bà T gửi đơn, Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không thể hòa giải được, ông T vắng mặt không lý do, thể hiện không có thiện chí hòa giải.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của bà T và ông T thật sự không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông T.

[3] Về con chung: bà T và ông T có 02 con chung tên Đoàn Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 16/02/2011 và Đoàn Nguyễn Anh T, sinh ngày 02/4/2013, hiện các con đang sống với ông T.

Xét yêu cầu của bà T cho thấy, từ khi bà T nộp đơn và Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay ông T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc bà T có yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Thư và đồng ý để ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Hà. Xét nguyện vọng của cháu Thư được ở với bà T, cháu Hà có nguyện vọng được ở với ông T nên Tòa án căn cứ vào thực tế và các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, giao cháu Thư cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Hà cho ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. bà T tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này các bên có tranh chấp về vấn đề nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết thành một vụ án khác, khi có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị T đối với ông Đoàn Văn T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Đoàn Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung tên Đoàn Nguyễn Anh T, sinh ngày 02/4/2013 cho bà Nguyễn Thị T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung tên Đoàn Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 16/02/2011 cho ông Đoàn Văn T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

Bà Nguyễn Thị T và ông Đoàn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm bà T đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008578 ngày 17/7/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. bà T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 139/2020/HNGĐ-ST ngày 19/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:139/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về