TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 139/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 523/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1992; thường trú: Số 121/15, tổ 4, khu phố 9, thị trấn V, huyện P, tỉnh B. Tạm trú: 36 Đức Tân, khu phố Đ1, phường A, thành phố D, tỉnh B. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Lê Vũ T, sinh năm 1986; thường trú: Ấp B, xã T, thị xã N, tỉnh H. Tạm trú: 36 Đ, khu phố Đ1, phường A, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/6/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Lê Vũ T sau thời gian tìm hiểu khoảng 02 năm thì tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện G, tỉnh B theo Giấy chứng nhận kết hôn số 60/2019, ngày 10/5/2019. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại phường A, thành phố D. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T sống không có trách nhiệm với gia đình, tiền làm ra đều sử dụng để chơi đánh bạc, thường xuyên lấy xe và điện thoại của chị T để đi cầm cố. Mặc dù chị T đã cố gắng khuyên anh T thay đổi để hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả. Anh T đã dọn ra ngoài sống riêng, vợ chồng sống ly thân từ cuối tháng 6/2020 đến nay nhưng anh T vẫn thường xuyên về nhà để thăm con. Nay chị T xác định không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Lê Nguyễn Bảo A, sinh ngày 22/7/2019. Hiện nay, cháu Bảo A đang sống chung với chị T. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo A, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn đã được Toà án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố và không cung cấp chứng cứ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B tham gia phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 23/9/2020, nguyên đơn có đơn yêu câu giải quyết văng mặt. Bị đơn anh Lê Vũ T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 19/10/2020 và ngày 06/11/2020 nhưng anh Lê Vũ T vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Lê Vũ T tự nguyện sống chung với nhau từ năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện G, tỉnh B theo Giấy chứng nhận kết hôn số 60/2019, ngày 10/5/2019 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T sống không có trách nhiệm với gia đình, tiền làm ra đều sử dụng để chơi đánh bạc, thường xuyên lấy xe và điện thoại của chị T để đi cầm cố. Mặc dù chị T đã cố gắng khuyên anh T thay đổi để hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả. Chị T và anh T đã sống ly thân từ cuối tháng 6/2020 đến nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh T đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh T không có mặt.
[3] Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh T không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án, không cung cấp lời khai và chứng cứ để chứng minh quan hệ hôn nhân chưa đến mức trầm trọng; mặt khác anh T cũng không quan tâm đến hòa giải để hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị T cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị T yêu cầu ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung tên Lê Nguyễn Bảo A, sinh ngày 22/7/2019. Xét thấy, trong thời gian trước đây và hiện nay con chung do chị Thân trực tiếp nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt và tính đến tháng 11/2020 cháu Bảo A chưa đủ 36 tháng tuổi, do đó việc giao cháu Bảo A cho mẹ nuôi là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Tòa án ghi nhận.
[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[6] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố D, tỉnh B.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T đối với anh Lê Vũ T về việc ly hôn.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lê Vũ T.
Về con chung: Anh Lê Vũ T giao con chung tên Lê Nguyễn Bảo A, sinh ngày 22/7/2019 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Lê Vũ T cấp dưỡng nuôi con.
Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị T và anh Lê Vũ T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh T lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị T nuôi con thì chị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn được khấu trè hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0040733 ngày 16/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh B.
3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 139/2020/HNGĐ-ST ngày 06/11/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 139/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về