Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG - TỈNH TÂY NINH

 BẢN ÁN 139/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 467/2019/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2019/QĐXX-ST ngày 08 tháng 11 năm 2019; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị L, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Ấp LT, xã HT, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trịnh Q C, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Ấp LT, xã HT, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Trịnh Thị L trình bày:

Chị và anh C chung sống với nhau vào năm 1997, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LH vào năm 2002. Sau khi cưới, vợ chồng sống chung với gia đình cha, mẹ chồng tại ấp LT, xã HT. Cuộc sống vợ, chồng xảy ra mâu thuẫn gay gắt từ năm 2017 nguyên nhân do tính tình vợ chồng không còn hợp nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống và thường xuyên cải nhau. Chị tự về nhà cha, mẹ chị tại ấp LT, xã HT sống từ tháng 10-2017 và vợ chồng tự sống ly thân đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có 03 người con chung đang theo sống với chị gồm:

Trịnh Thị Kim T, sinh năm 1998;

Trịnh Thị Kim P, sinh ngày 25-8-2004;

Trịnh Hoàng Anh Q, sinh ngày 08-3-2009.

Khi ly hôn, chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu P và cháu Q, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Cháu T đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Trịnh Q C không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị L.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xem xét, quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trịnh Thị L yêu cầu được ly hôn anh Trịnh Q C. Cho chị Trịnh Thị L được ly hôn anh Trịnh Q C.

Về con chung: Cháu Trịnh Thị Kim T, sinh năm 1998 đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết.

Giao chị L tiếp tục nuôi dưỡng cháu Trịnh Thị Kim P, sinh ngày 25-8- 2004 và cháu Trịnh Hoàng Anh Q, sinh ngày 08-3-2009.

Ghi nhận chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trịnh Thị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Trịnh Q C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh C chung sống với nhau vào năm 1997, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Hưng, huyện Trảng Bàng vào năm 2002. Do đó, hôn nhân của chị L và anh C là hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và tự sống ly thân từ tháng 10-2017 đến nay. Nay chị L yêu cầu được ly hôn anh C; anh C không có ý kiến đối với yêu cầu của chị L. Mặc dù, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh C đến Tòa án để tham gia tố tụng nhưng anh C vẫn vắng mặt không lý do. Anh C không gửi ý kiến của anh đối với yêu cầu của chị L cho Tòa án. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vụ án theo những chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Kết quả xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị L, anh C có xảy ra mâu thuẫn và chị L đã về nhà cha, mẹ chị tại ấp LT, xã HT sống từ tháng 10- 2017 đến nay. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Hôn nhân của chị L và anh C lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị L được ly hôn anh C theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Cháu Trịnh Thị Kim T, sinh năm 1998 đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

Cháu Trịnh Thị Kim P, sinh ngày 25-8-2004 và cháu Trịnh Hoàng Anh Q, sinh ngày 08-3-2009 đang theo sống với chị L, chị L có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu P, cháu Q; cháu P, cháu Q cũng có nguyện vọng theo sống với chị L. Vì vậy, có căn cứ giao chị L tiếp tục nuôi dưỡng cháu P, cháu Q. Ghi nhận chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trịnh Thị L yêu cầu được ly hôn anh Trịnh Q C.

Chị Trịnh Thị L được ly hôn anh Trịnh Q C.

2. Về con chung:

Cháu Trịnh Thị Kim T, sinh năm 1998 đã trưởng thành, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra giải quyết việc nuôi dưỡng.

Giao chị Trịnh Thị L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trịnh Thị Kim P, sinh ngày 25-8-2004 và cháu Trịnh Hoàng Anh Q, sinh ngày 08-3-2009.

Ghi nhận chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con.

Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Trịnh Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017337 ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng; chị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Báo cho chị L, anh C biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:139/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về