Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 14/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 139/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 173/2018/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2018 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2481/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 2838/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Th, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn A, xã A1, huyện A2, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Ch, sinh năm 1968; nơi cư trú: B, Korea (Hàn Quốc); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn là chị Đinh Thị Th trình bày: Đầu năm 2005, chị có quen biết anh Ch qua người môi giới. Sau một thời gian quen biết, tìm hiểu, chị và anh Ch đã quyết định tiến tới hôn nhân. Chị và anh Ch kết hôn tự nguyện, được Cơ quan có thẩm quyền Hàn Quốc cấp Giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân ngày 10 tháng 11 năm 2005 và đã thực hiện việc ghi chú kết hôn, được Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng cấp Giấy xác nhận về việc ghi chú vào sổ việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tại quyển 01 số 100 ngày 27 tháng 3 năm 2006. Sau khi kết hôn, chị có sang Hàn Quốc đoàn tụ cùng anh Ch. Tuy nhiên, sau khi chung sống, chị và anh Ch thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng về ngôn ngữ, quan điểm sống, lối sống, phong tục tập quán khiến chị bị trầm cảm. Tháng 12 năm 2006, chị đã bỏ ra ngoài sống cùng bạn bè. Từ đó, chị và anh Ch không còn liên lạc gì với nhau nữa. Tháng 12 năm 2008, chị trở về Việt Nam sống và không có ý định quay trở lại Hàn Quốc nữa. Nay chị xác định chị không còn tình cảm với anh Ch, khả năng đoàn tụ vợ chồng là không có nên chị đã có đơn đề nghị Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ch để có cơ hội xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung và tài sản chung: Chị và anh Ch không có con chung và không có tài sản gì chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Ch là người Hàn Quốc có địa chỉ: B, Korea (Hàn Quốc). Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Tòa án quốc gia Hàn Quốc để tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về thời gian giải quyết vụ án và lấy lời khai của anh Ch nhưng không thể tống đạt được (lý do: Đóng cửa, vắng mặt). Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo về việc thụ lý vụ án và thời gian giải quyết vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và Cổng thông tin điện tử của Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hàn Quốc theo quy định của pháp luật nhưng đến nay, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng không nhận được bất cứ văn bản nào của anh Ch.

Tại phiên toà hôm nay, chị Đinh Thị Th giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh Ch, không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung và tài sản chung do không có.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Quan điểm giải quyết vụ án: Mâu thuẫn giữa chị Đinh Thị Th và anh Ch đã sâu sắc, không còn khả năng hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Th, cho chị Đinh Thị Th được ly hôn anh Ch. Về con chung và tài sản chung không có nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí và quyền kháng cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ, cũng như lời trình bày của các đương sự, quan điểm của Viện Kiểm sát tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Đinh Thị Th và anh Ch kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Cơ quan có thẩm quyền Hàn Quốc cấp Giấy chứng nhận quan hệ hôn nhân ngày 10 tháng 11 năm 2005 và đã thực hiện việc ghi chú kết hôn, được Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng cấp Giấy xác nhận về việc ghi chú vào sổ việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tại quyển 01 số 100 ngày 27 tháng 3 năm 2006. Theo quy định tại Điều 9, Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, đây là hôn nhân hợp pháp. Anh Ch hiện đang cư trú ở nước ngoài, theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 40, điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Anh Ch là bị đơn có quốc tịch Hàn Quốc. Theo địa chỉ mà chị Đinh Thị Th cung cấp cũng như địa chỉ mà anh Ch đã khai trong giấy chứng nhận kết hôn, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành ủy thác tư pháp cho Tòa án quốc gia Hàn Quốc để tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc giải quyết vụ án và đề nghị anh Ch cho biết quan điểm đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Đinh Thị Th. Ngày 02 tháng 5 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng nhận được Công văn số 1196/BTP-PLQT ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Bộ Tư pháp cho biết Tòa án tại Hàn Quốc không thực hiện được ủy thác tư pháp do đương sự đóng cửa, vắng mặt. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo về việc thụ lý vụ án và thời gian giải quyết vụ án trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và Cổng thông tin điện tử của Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Hàn Quốc. Tuy nhiên, đến nay đã hết thời hạn 01 tháng kể từ ngày đăng thông báo nhưng anh Ch không có mặt tại phiên tòa. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh Ch theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Th và anh Ch chung sống không có hạnh phúc do vợ chồng bất đồng về ngôn ngữ, quan điểm sống, lối sống, phong tục tập quán. Xác định từ tháng 12 năm 2008 đến nay, chị Đinh Thị Th và anh Ch mỗi người sống một nước, không còn liên lạc với nhau nên không còn tình cảm, không có đời sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy yêu cầu của chị Đinh Thị Th xin được ly hôn với anh Ch là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận yêu cầu xin được ly hôn của chị Đinh Thị Th đối với anh Ch.

[4] Về con chung và tài sản chung: Chị Đinh Thị Th và anh Ch không có con chung, không có tài sản chung và chị Đinh Thị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài: Chị Đinh Thị Th là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40, Điều 146, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153, điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 2 Điều 207, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đinh Thị Th được ly hôn với anh Ch.

2. Về án phí: Chị Đinh Thị Th phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0010997 ngày 09 tháng 10 năm 2018 tại Cục Thị hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Đinh Thị Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về chi phí ủy thác tư pháp: Chị Đinh Thị Th phải chịu tiền chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài được trừ vào số tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0010911 ngày 25 tháng 10 năm 2018 tại Cục Thị hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Đinh Thị Th đã nộp đủ chi phí ủy thác ra nước ngoài.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

- Chị Đinh Thị Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Anh Ch được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 14/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:139/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về