Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 139/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 10 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 52/2019/TLST-HNGĐ ngày 19/02/ 2019, về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/02/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:Nguyễn Thị Bé S, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ 17, ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Trần Minh H, sinh năm 1979; nơi cư trú: Tổ 5, ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo bà Nguyễn Thị Bé s trình bày:

Hôn nhân giữa bà và ông Trần Minh H là tự tìm hiểu, yêu thương nhau có tổ chức lễ cưới vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V vào ngày 28/02/2008. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khi vợ chồng lên Bình Dương làm hồ nên phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên tranh cãi, ông H nắm hết tài chính trong gia đình, khi bà S bệnh ông H không chăm lo, chi li trong chuyện tiền bạc; không những thế ông H còn thường xuyên nhậu nhẹt, khi nhậu vô dùng những lời lẽ thô tục đối với bà S. Bà S và ông H đã ly thân từ tháng 7/2018 (AL) cho đến nay. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà S yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Nguyễn K, sinh ngày 17/9/2008 và Trần Thị Bích T, sinh ngày 08/4/2016. Hiện nay 02 cháu K và T đang sống với bà S. Sau khi ly hôn bà S yêu cầu được nuôi hai cháu K và T, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn, ông Trần Minh H trình bày: thống nhất thời điểm kết và con chung, tài sản chung như lời trình bày của bà S. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, thời gian sau phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn, do ông và bà Bé S bất đồng quan điểm sống, ông thừa nhận có giữ tài chính của cả ông và bà S nhưng số tiền đó để dùng chung cho cả hai vợ chồng, để trong bóp rồi ai muốn lấy thì lấy. Ông cũng thường hay nhậu, về có tranh cãi qua lại với bà S. Ông nhận thấy những điểm bất đồng, những mâu thuẫn tranh cãi là những lỗi nhỏ có thể bỏ qua được, ông xác định vẫn còn yêu thương vợ và 02 con nên ông không đồng ý ly hôn với bà S.

Về chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Tại hai biên bản hòa giải, bà S vẫn giữ nguyên yêu cầu; phía ông H vẫn không đồng ý ly hôn, yêu cầu được đoàn tụ.

Tòa án tiến hành xác minh qua lời khai của bà Trần Thị T ngày 21/3/2019 - mẹ ruột của bà Nguyễn Thị Bé S cho biết: bà S và ông H tự tìm hiểu yêu thương có tổ chức lễ cưới năm 2004; cưới xong thì bà Bé S về làm dâu bên chồng tại ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang được khoảng 02 năm. Sau đó bà S và ông H đi lên Bình Dương làm hồ, cũng thường hay đi đi về về. Mâu thuẫn xuất phát từ việc bà Bé S kể với bà là ông H nắm hết tài chính trong gia đình, bà Bé S bệnh vẫn không chăm sóc, bỏ bê vợ, con; thường xuyên nhậu nhẹt rồi về kiếm chuyện chửi xúc phạm bà S, không tôn trọng bà S và cả gia đình bà S. Bà S cũng đã bỏ đi nhiều lần, rồi cũng quay về sống lại. Đến khoảng tháng 7/2018 (AL) bà S và ông H ly thân với nhau cho đến nay. Bà nhận thấy khả năng hàn gắn là không thể.

Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi. Về quan hệ hôn nhân, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Bé S và ông Trần Minh H có tổ chức lễ cưới; có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện A, tỉnh An Giang vào ngày 28/02/2008, là hôn nhân hợp pháp nên yêu cầu xin ly hôn của bà S được tòa án thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà S và ông H tự tìm hiểu, tổ chức lễ cưới vào năm 2004, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên tranh cãi dẫn đến tình cảm không thể hàn gắn. Bà S và ông H đã ly thân nhau từ tháng 7/2018 AL cho đến nay. Hôn nhân giữa bà S với ông H thực tế không thể hàn gắn, thời gian ly thân khá lâu bên cạnh đó mẹ ruột của bà S là bà Trần Thị T cũng đã xác nhận những mâu thuẫn giữa bà S và ông H, do đó việc chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà S là có căn cứ.

[3] Về con chung: Có 02 con chung Trần Nguyễn K, sinh ngày 17/9/2008 và Trần Thị Bích T, sinh ngày 08/4/2016; hiện đang sống với bà S, khi ly hôn bà S yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy 02 con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng; thấy rằng, từ lúc ly thân cho đến thời điểm hiện nay con chung vẫn sống với bà S, bên cạnh đó cháu K cũng có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, xét chấp nhận để cho bà S tiếp tục nuôi dạy 02 con chung là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên Tòa án không xem xét giải quyết, nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Về án phí: Bà S phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 48 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH144, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị Bé S.

Về quan hệ hôn nhân

Bà Nguyễn Thị Bé S được ly hôn với ông Trần Minh H.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 31 ngày 28/02/2008 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

* Về con chung:

Bà Bé S được tiếp tục nuôi dạy 02 con chung Trần Nguyễn K, sinh ngày 17/9/2008 và Trần Thị Bích T, sinh ngày 08/4/2016; ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà S cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà S phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm; số tiền này được chuyển từ tạm ứng án phí mà bà S đã nộp theo biên lai thu số TU/2016/0011090 ngày 19/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 139/2019/HNGĐ-ST ngày 10/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:139/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về