TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 139/2017/DS-PT NGÀY 16/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 111/2017/TLPT-DS ngày 26 tháng 7 năm 2017 về “tranh chấp hợp đồng góp hụi”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 32/2017/DS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện TT, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 140/2017/QĐPT-DS ngày 27 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Neáng My N, sinh năm 1973; cư trú: khóm B, thị trấnTT, huyện TT, tỉnh An Giang. (có mặt)
2. Bị đơn: Bà Thạch Thị Sóc K, sinh năm 1956; cư trú: tổ 15, ấp A, xã CL, huyện TT, tỉnh An Giang. (có mặt)
3. Người phiên dịch: Bà Nguyễn Thị P - Biên dịch viên phòng dân tộc, Đài phát thanh truyền hình An Giang. (có mặt)
4. Người kháng cáo: bà Thạch Thị Sóc K là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn, chị Neáng My N trình bày: chị có tham gia 02 phần hụi trong dây hụi 200.000 đồng do bà Thạch Thị Sóc K làm chủ hụi, dây hụi có 64 hụi viên, mở lần đầu vào ngày 08/11/2011; chị đã lĩnh hụi 01 lần và đã góp hụi 59 lần, tuy nhiên, đến ngày 25/12/2016 bà K ngưng hụi. Chị có đến thỏa thuận lấy lại vốn đã góp hụi và sau khi tính toán, bà K thừa nhận và ký nhận còn nợ 9.660.000 đồng tiền vốn. Đến thời gian sau, bà K có trả được 750.000 đồng nên òn nợ lại 8.910.000 đồng. Nay chị yêu cầu bà K phải trả số nợ trên.
* Bị đơn, bà Thạch Thị Sóc K thống nhất với trình bày của chị Neáng My N và thừa nhận hiện nay còn nợ chị N số tiền 8.910.000 đồng, xin trả dần theo phương thức bốc thăm, mỗi tuần sẽ trả 5.000.000 đồng cho hụi viên bốc được thăm và xoay vòng cho đến khi trả dứt nợ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 32/2017/DS-ST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện TT đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Neáng My N.
Buộc bà Thạch Thị Sóc K phải trả cho chị Neáng My N số tiền 8.910.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/6/2017 bà Thạch Thị Sóc K có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét xin được trả nợ theo phương thức bốc thăm, bà sẽ xoay vòng, mỗi tuần trả cho một người số tiền 5.000.000đ cho đến khi dứt nợ
Tại phiên tòa phúc thẩm: bà Thạch Thị Sóc K vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Thực tế các đương sự đã xác lập hợp đồng góp hụi; nhưng do bà Thạch Thị Sóc K (chủ các dây hụi) đã vi phạm các nghĩa vụ đối với các hụi viên. Do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Bà K kháng cáo xin được trả dần số tiền còn nợ nhưng không được nguyên đơn đồng ý; Nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Bà Thạch Thị Sóc K kháng cáo và nộp tiền tạm ứng kháng cáo trong hạn luật định nên được chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
[2] Nguyên đơn chị Néang My N trình bày: Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là do chị đã tham gia chơi hụi do bà Thạch Thị Sóc K làm chủ hụi; Dây hụi200.000đ, mở lần đầu vào ngày 08/11/2011, có 64 hụi viên; tham gia 02 phần; Chị đã hốt hết 01 phần; Và đã góp hụi 59 lần. Đến ngày 25/12/2016 bà K tự ngưng hụi. Sau khi đối chiếu sổ sách bà K còn nợ tiền hụi là 9.660.000 đồng và có làm biên nhận nợ; Sau đó bà K trả được 750.000 đồng; hiện nay còn nợ 8.910.000 đồng. Nay tôi yêu cầu bà K phải trả số tiền 8.910.000 đồng.
Về phía bị đơn bà Thạch Thị Sóc K thống nhất theo trình bày của nguyên đơn và thừa nhận còn nợ chị N số tiền 8.910.000 đồng; Nhưng hiện nay hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xin được trả dần.
[3] Xét thấy: Thực tế các bên đương sự đã xác lập giao dịch dân sự về “hụi”; Nhưng do bà Thạch Thị Sóc K là chủ dây hụi 200.000 đồng; đã vi phạm nghĩa vụ đối với hụi viên; Do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để buộc bà Thạch Thị Sóc K có nghĩa vụ trả cho chị N 8.910.000 đồng là có căn cứ. Mặc khác, bà K kháng cáo xin được trả “dần” cho đến khi dứt nợ nhưng không được phía nguyên đơn đồng ý nên không có cơ sở để xem xét.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở chấp nhận; để áp dụng khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bàThạch Thị Sóc K; giữ nguyên bản án sơ thẩm
[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Thạch Thị Sóc K phải chịu tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1, Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”; Luật phí và lệ phí năm 2015.
+ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Thạch Thị Sóc K
+ Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 32/2017/DS-ST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh An Giang.
Tuyên xử :
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Néang My N.
+ Buộc bà Thạch Thị Sóc K phải trả cho chị Néang My N số tiền 8.910.000 (tám triệu chín trăm mười ngàn) đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất 10%/năm tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
+ Về án phí sơ thẩm
Bà Thạch Thị Sóc K phải nộp 445.000 (bốn trăm bốn mươi lăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho chị Néang My N 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0011720 ngày 14 tháng 3 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TT.
+ Về án phí phúc thẩm :
Bà Thạch Thị Sóc K phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng kháng cáo đã nộp theo biên lai thu số: 0012028 ngày 21/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT (đã nộp xong).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 của luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 139/2017/DS-PT ngày 16/08/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 139/2017/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về