TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 138/2021/HSST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06/5/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 126/2021/HSST ngày 26/3/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 145/2021/QĐXX-HS ngày 22/4/2021 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Đặng Đức T. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.
Sinh năm 1979. Tại Đ Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: T A, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Dân tộc:
Kinh; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: 9/12 Con ông: Đặng Văn V, sinh năm 1937. Con bà: Vương Thị H (đã chết). Chung sống như vợ chồng với: Lò Thị Ú, sinh năm 1986, bị cáo có 03 con; con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị tòa xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 17/02/2021, bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 17/02/2021, Đặng Đức T đi bộ từ nhà ở thôn T A, xã T, huyện Đ đến khu vực bờ mương thuộc bản L, xã Thanh L thì gặp một người đàn ông không biết tên khoảng 40 tuổi, T hỏi và mua được 05 viên Methamphetamine với giá 200.000đ, mua được ma túy T cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ về nhà. Hồi 17 giờ 20 phút cùng ngày khi T đang ở nhà thì bị Tổ công tác Đồn biên phòng T vào nhà phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi quần bên phải T đang mặc gói nilon màu trắng bên trong có 05 viên nén màu hồng.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 18/02/2021 đã xác định: 05 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp thu giữ của bị cáo Đặng Đức T có khối lượng là 0,52 gam. Trích 0,1 gam gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 21/GĐ-PC09 ngày 25/02/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Đặng Đức T gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine không hoàn lại đối tượng giám định.
Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKSĐB ngày 25/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Đặng Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Đặng Đức T 15 tháng đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí HSST.
Tại phiên tòa bị cáo Đặng Đức T một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Đặng Đức T là đối tượng nghiện chất ma túy. Ngày 17/02/2021 bị cáo đi bộ từ nhà thôn T A, xã T, huyện Đ đến khu vực bản L, xã T gặp và mua được 5 viên nén màu hồng của một người đàn ông không biết tên với giá 200.000đ đem về nhà bị cáo chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang khối lượng là 0,52gam.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,52 gam kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,52 gam Methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:
Bị cáo sinh ra và lớn lên tại T, huyện Đ bản thân được học đến lớp 9/12 nghỉ học, năm 2005 chung sống như vợ chồng với Lò Thị H đến năm 2010. Năm 2014 chung sống với Lò Thị Ú bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2015. Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo có bố đẻ ông Đặng Văn V được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy.
[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thõn lại nghiện chất ma tuý. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông ở bản L, xã T theo bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo. Do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được do vậy HĐXX không xem xét.
[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu huỷ: 0,52 gam Methamphetamine đã trích 0,1 gửi giám định không hoàn lại.
[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Đặng Đức Thụ phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Đặng Đức T 15 tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (17/02/2021).
3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ: 0,52 gam Methamphetamine đã trích 0,1 gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 26/3/2021).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Đặng Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/5/2021).
Bản án 138/2021/HSST ngày 06/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 138/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về