Bản án 138/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 138/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 868/2021/TLST-HNGĐ ngày 3 tháng 11 năm 2020 Về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2021/QĐXX-ST ngày 15 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh T - Sinh năm 1987. ĐKHKTT ấp MT, thị trấn ML, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nơi cư trú: ấp LP2, xã LĐB, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trương Tấn T1 - sinh năm 1983. Nơi cư trú: ấp MT, thị trấn ML, huyện CM, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Bà và ông TI quen biết và kết hôn vào năm 2007 có đăng ký kết hôn. Chung sống được 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp thường hay tranh cải nhau, cả hai cố gắng tìm cách hàn gán nhưng không được đến năm 2020 thì không còn chung sống với nhau. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với ông TI .

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Trương Trung H, sinh ngày 23/7/2009 và Trương Trí D, sinhn ngày 22/11/2013 hiện đang sống với bà, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn ông Trương Tấn T1 đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng váng mặt không có lý do hội đồng xét xử tiến hành xét xử váng mặt là đúng quy định.

Về ý kiến Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Bà T và ông T1 kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống chung sống đến năm 2020 thì ly thân. Nay, nhận thấy tình cảm không còn, bà T yêu cầu ly hôn với ông Tl, ông TI không có ý kiến phản hồi và không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn hạnh phúc vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc bà T yêu cầu xin ly hôn với ông TI là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Trương Trung H, sinh ngày 23/7/2009 và Trương Trí D, sinh ngày 22/11/2013 hiện đang sống với bà T, bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng, các con chung do bà T chăm sóc nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, ông T1 không có ý kiến phản hồi, nên bà T yêu cầu nuôi con là phù hợp.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] . Về thủ tục tổ tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại thị trấn Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2] . Về nội dung tranh chấp

Bà Nguyễn Thị Thanh T và ông Trương Tấn TI kết hôn năm 2007 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo bà T trình bày, vợ chồng chung sống khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do chồng chỉ lo làm phụ tiếp gia đình bên chồng khong lo cho gia đình riêng của mình, bà có khuyên nhiều lần nhưng ông T1 không thay đổi, sự việc kéo dài đến cuối năm 2020 thì bà Về nhà cha mẹ ruột sinh sống sau đó đi làm công nhân để sinh sống và nuôi con. Nhận thấy, tình cảm không còn, bà T yêu cầu ly hôn với ông Trung. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án Về việc bà T yêu cầu ly hôn và triệu tập ông TI tham gia các phiên họp Về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng ông TI vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà T. Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà T và ông T1 đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do bất đồng trong việc làm kinh tế của gia đình với gia đình bên chồng, ông TI không có biện pháp dung hòa trong công việc kinh tế của gia đình với gia đình riêng của mình, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày mâu thuẫn nhiều hon và không còn chung sống từ năm 2020 đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T xin ly hôn ông Trung.

[3/ Về quan hệ con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Trương Trung H, sinh ngày 23/7/2009 và Trương Trí D, sinh ngày 22/11/2013 hiện đang sống với bà T. Khi ly hôn bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, các con chung do bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, nguyện vọng của các cháu H, cháu D được tiếp tục sống với bà T, trong quá trình giải quyết ông TI cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của bà T. Vì vậy, nghĩ nên để bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà T không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Bà T không yêu cầu tòa án giải quyết.

[6] Về quan hệ nợ chung: Bà T trình bày không có.

[7] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh T xin ly hôn ông Trương Tấn T1 .

Giấy chứng nhận kết hôn số 06, ngày 8 tháng 01 năm 2008 do Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Thanh T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trương Trung H, sinh ngày 23/7/2009 và Trương Trí D, sinh ngày 22/11/2013. Ông Trương Tấn T1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị Thanh T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông T1 trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận việc bà T xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì bà T, ông TI phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Nguyễn Thị Thanh T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0013820 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 3/11/2020.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyên thoả thuận thi hành án, quyên yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2021/HNGĐ-ST ngày 22/04/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:138/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về