Bản án 138/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 138/2020/HS-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 124/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Văn B; sinh năm; 1989; Tại: tỉnh Hậu Giang.

Tên gọi khác: Không có, Giới tính : Nam.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Thạnh Phú, xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

Chỗ ở: KP.Phú Thanh, P. Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh, Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 4/12 ; Nghề nghiệp: Không có.

Con ông: Phan Văn T, sinh năm: 1954 Con bà: Nguyễn Thị N, sinh năm ; 1962 Họ tên vợ: Trần Thị Ngọc L; sinh năm ; 1997. Bị can có 01 con; sinh năm; 2019 Tiền án; không có.

Tiền sự: 02 -Ngày 20/4/2018 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Thạnh ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dưỡng tại thị trấn với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

-Ngày 11/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang ra Quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng nhưng sau đó bỏ trốn chưa chấp hành.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại Tòa.

Người bị hại: Nguyễn Trung K, sinh năm 1995; Địa chỉ: Khu phố Xuân B, phường Tân B, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước.

Người làm chứng:

1.Đoàn Văn V; sinh năm; 1998; Địa chỉ: Ấp Thuận Phú 1, xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh B phước.

2.Phan Văn P, sinh năm 1981; Địa chỉ khu phố Phú Thanh, phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 25/6/2020 Phan Văn B điều khiển xe mô tô biển số;

61U1- 7453 hiệu Attila màu đen, đi từ khu phố Phú Thanh, phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài đi lòng vòng tìm những người có tài sản quản lý sơ hở để chiếm đoạt. Khi đến khu vực đoạn đường Võ Văn Tần thuộc khu phố Tân B, phường Tân B, thành phố Đồng Xoài thì B nhìn thấy chiếc xe mô tô biển số; 93M1- 193.79 nhãn hiệu Hon da Vision màu đỏ của anh Nguyễn Trung K đang để ở trước tiệm hoa và ở phía trước hộc xe có để chiếc điện thoại di động hiệu I phone XS 64Gb màu vàng không có người trông coi. Lúc này B đi đến lấy chiếc điện thoại di động trên rồi điều khiển xe đi về phòng trọ. Sau khi mất tài sản anh K đến Cơ quan Công an trình báo. Phan Văn B sau khi chiếm đoạt được tài sản nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên đến Công an thành phố Đồng Xoài đầu thú và giao nộp tài sản đã trộm cắp của anh K.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 110 ngày 30/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Đồng Xoài kết luận : 01 điện thoại di động nhãn hiệu I phone XS 64Gb màu vàng trị giá 9.000.000đồng.

Tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKS-ĐX ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đã truy tố bị cáo Phan Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên toà:

-Bị cáo Phan Văn B thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện thành phố Đồng Xoài bị cáo là đúng. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn.

-Bị hại anh Nguyễn Trung K vắng mặt tại phiên tòa.

-Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phan Văn P trình bày: anh đã nhận lại chiếc xe mô tô biển số; 61U1- 7453 hiệu Attila màu đen, anh không có ý kiến và yêu cầu gì.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Văn B từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Trộm căp tài sản”.

Do bị cáo làm nghề tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng số 134/CT-VKS-ĐX ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với kết luận điều tra, kết luận định giá tài sản, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng, vào ngày 25/6/2020 Phan Văn B thực hiện hành vi lén lút lấy trộm của anh Nguyễn Trung K 01 điện thoại di động nhãn hiệu I phone XS 64Gb màu vàng trị giá 9.000.000 đồng tại phường Tân B, thành phố Đồng Xoài, tỉnh B Phước. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận [3] Xét bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân, bị cáo có nhân thân xấu có 02 tiền sự: Ngày 20/4/2018 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Thạnh ra Quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dưỡng tại thị trấn với thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và Ngày 11/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang ra Quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng nhưng sau đó bỏ trốn chưa chấp hành.

Qua đó cho thấy, ý thức chấp hành pháp luật của các bị cáo đều kém nên mức án áp dụng đối với các bị cáo phải thật nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên cần được xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo làm nghề tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]3.Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Trung K và anh Phan Văn P đã nhận lại tài sản không có yêu cầu nào khác nên Hội đồng xét xử không xét xét.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7]Bị cáo phải chịu án phí HSST theo các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của UBTV Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Phan Văn B phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

2.Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Văn B 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25/6/2020.

3.Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Trung K và anh Phan Văn P đã nhận lại tài sản không có yêu cầu nào khác nên Hội đồng xét xử không xét xét.

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Phan Văn B phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Phan Văn B, anh Phan Văn P có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại Nguyễn Trung K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2020/HS-ST ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:138/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về