Bản án 138/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN-TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 138/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 141/2020/HSST ngày 11/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 206/2020/QĐXXST-HS ngày 27/11/2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: NGUYỄN MINH S, sinh năm 1980 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ B, khu vực C, phường L, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn M (chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1955; Vợ: Đinh Thị T (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2004;

Tiền án:

- Ngày 22/9/2003, bị TAND TP. Quy Nhơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”;

- Ngày 31/12/2010, bị TAND tỉnh Bình Định xử phạt 10 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt ngày 17/9/2018.

Nhân thân:

- Năm 1999, bị TAND Cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Năm 2001, bị TAND TP. Quy Nhơn xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2020 cho đến nay; Bị cáo có mặt.

2. Họ và tên: NGUYỄN TIẾN N, sinh năm 1979 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ B, khu vực C, phường L, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Minh H (chết) và bà: Lê Thị L, sinh năm 1950; Vợ: Trần Thị Diễm T, sinh năm 1981, có 02 người con sinh năm 2001 và năm 2015; Tiền án: Ngày 30/8/2010 bị TAND tỉnh Bình Định xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù từ ngày 21/9/2015 (chưa thi hành xong phần bồi thường dân sự); Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 24/6/2002 bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/7/2020 cho đến nay; Bị cáo có mặt.

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1993 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A đường N, phường L, TP. Q, Bình Định.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Minh S, sinh năm 1985 (Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà H đường V, phường N, TP. Q, Bình Định.

- Người tham gia tố tụng khác:Chị Trần Thị Cẩm H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 17/7/2020, Nguyễn Minh S và Nguyễn Tiến N rủ nhau mang theo 01 móc kim loại hình chữ “L” và 01 thanh kim loại lục giác hình chữ “L” đi dạo quanh các Ngân hàng trên địa bàn TP. Q, xem người nào sơ hở thì lén lút chiếm đoạt tài sản. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo S và N phát hiện chị Nguyễn Thị Ngọc N từ trong Ngân hàng BIDV chi nhánh tỉnh Bình Định trên đường L, TP. Q đi ra, bỏ 01 bọc nilon màu xanh bên trong có 10.000.000 đồng vào cốp xe môtô biển kiểm soát 77L1-384.68 rồi điều khiển xe rời đi. Lúc này, bị cáo N điều khiển xe môtô biển kiểm soát 77L1-671.00 chở bị cáo S chạy bám theo chị N để tìm cách chiếm đoạt. Chị N đi đến cửa hàng điện thoại “H”, ở địa chỉ A, đường N, TP. Q rồi dựng xe môtô trước cửa hàng, đi vào siêu thị Coopmark. Thấy chị N đã đi vào siêu thị, bị cáo N điều khiển xe môtô chở bị cáo S lại gần và ngồi trên xe để cảnh giới. Còn S lén lút đến vị trí xe môtô biển kiểm soát 77L1-384.68 của chị N, dùng móc kim loại cạy khóa, mở cốp xe môtô 77L1-384.68 lấy số tiền 10.000.000 đồng rồi đi lại chỗ N để tẩu thoát thì bị lực lượng của đội Cảnh sát hình sự Công an TP. Q phát hiện bắt quả tang, đưa về trụ sở làm việc. Tại đây, cả hai đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ:

- 01 (một) thanh kim loại dài 10,5cm có một đầu dẹp chữ “L”, một đầu thân tròn uốn cong hình chữ nhật.

- 01 (một) thanh kim loại lục giác chữ “L” dài 11,5cm, có một đầu mài dẹp.

- 01 (một) xe môtô hiệu Honda AirBlade, màu đen-đỏ, biển số: 77L1- 671.00, đã qua sử dụng. Xe này đã trả lại cho anh Nguyễn Minh S.

- 01 (một) bì nilon màu xanh có in chữ Ngân hàng BIDV bên trong có 10.000.000 đồng, đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Ngọc N.

Về dân sự: Tài sản đã được trả lại nên bị hại Nguyễn Thị Ngọc N không yêu cầu bồi thường gì thêm.

- Tại bản cáo trạng số 136/CT-VKSQN ngày 10/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân TP. Q truy tố bị cáo Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Tiến N về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Nguyễn Minh S, Nguyễn Tiến N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết “Tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự; giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Tiến N về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến N từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Nguyễn Thị Ngọc N đã nhận lại số tiền bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 01 móc khóa kim loại hình chữ L và 01 thanh kim loại lục giác là công cụ phạm tội.

Bị cáo tự bào chữa: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 17/7/2020, tại trước cửa hàng điện thoại “H”, ở địa chỉ A, đường N, TP. Q, các bị cáo Nguyễn Minh S, Nguyễn Tiến N lén lút, dùng thanh kim loại, móc cốp xe môtô của chị Nguyễn Thị Ngọc N chiếm đoạt của chị N số tiền 10.000.000 đồng thì bị phát hiện bắt quả tang. Các bị cáo Nguyễn Minh S và Nguyễn Tiến N đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản, lẻ ra sau khi chấp hành xong hình phạt trở về địa phương các bị cáo phải lo chí thú làm ăn để có thu nhập nuôi sống bản thân, làm công dân tốt có ích cho xã hội, nhưng do tham lam, xem thường pháp luật, muốn có tiền để tiêu xài mà không chịu lao động chân chính các bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Nguyễn Minh S có 02 tiền án chưa được xóa án tích, hiện “tái phạm” tiếp tục phạm tội do cố ý, còn bị cáo Nguyễn Tiến N có 01 tiền án chưa được được xóa án tích, tiếp tục phạm tội do cố ý. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung“Tái phạm nguy hiểm”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo Nguyễn Tiến N về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Trong vụ án có 02 bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn cùng thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo S là người đề xướng và trực tiếp móc cốp xe mô tô chiếm đoạt tài sản nên phải xử phạt tương xứng với hành vi của từng bị cáo.

[3] Hành vi do các bị cáo Nguyễn Minh S, Nguyễn Tiến N gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, trị an ở địa phương nên phải xử phạt nghiêm, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo thì thấy rằng: Các bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án đưa ra xét xử; Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Minh S không có tình tiết tăng nặng, bị cáo Nguyễn Tiến N phạm tội với tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để các bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Nguyễn Thị Tuyết N đã nhận lại số tiền bị chiếm đoạt, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[6] Xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Quy Nhơn thu giữ của các bị cáo: 01 thanh kim loại dài 10,5cm có một đầu dẹp chữ “L”, một đầu thân tròn uốn cong hình chữ nhật và 01 (một) thanh kim loại lục giác chữ “L” dài 11,5cm, có một đầu mài dẹp. Xét thấy, các bị cáo sử dụng các thanh kim loại làm công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy các thanh kim loại trên.

[7] Về án phí: Các bị cáo bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Vấn đề khác: Đối với anh Nguyễn Minh S cho bị cáo Nguyễn Tiến N thuê xe môtô biển kiểm soát 77L1-671.00, nhưng Sang không biết bị cáo N sử dụng làm phương tiện để phạm tội nên không xử lý hình sự đối với S là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Minh S, Nguyễn Tiến N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

1.1 Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2020.

1.2 Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) thanh kim loại dài 10,5cm có một đầu dẹp chữ “L”, một đầu thân tròn uốn cong hình chữ nhật, đã qua sử dụng;

- 01 (một) thanh kim loại lục giác chữ “L” dài 11,5cm, có một đầu mài dẹp, đã qua sử dụng.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Minh S, Nguyễn Tiến N mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:138/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về