Bản án 138/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 138/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01 tháng 09 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 05 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 31 tháng 07 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2020/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Bùi Văn Th - Sinh năm: 1993 HKTT: Thôn Cốc Cáo, xã Lương Ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 14/07/2020).

Bị đơn: Chị Bùi Thị L - Sinh năm: 2000 HKTT: Thôn Cốc Cáo, xã Lương Ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 27/05/2020 anh Bùi Văn Th trình bày: Anh với chị Bùi Thị L đến với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào ngày 30/7/2018 tại UBND xã Lương Ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình vợ chồng chung sống với nhau thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau nên thường xuyên bất đồng nhau về quan điểm và lối sống, hay xảy ra cãi vã bất hòa, không có tiếng nói chung. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục tình trạng hôn nhân như hiện nay, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn chị Bùi Thị L.

- Về con cái: Trong thời gian chung sống vợ chồng anh có 01 con chung tên là Bùi Thị Bảo Châu - sinh ngày 01/9/2017. Nguyện vọng của anh là xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản: Anh Th không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý và triệu tập hợp lệ chị Bùi Thị L đến Tòa án để làm bản tự khai nhưng chị L vắng mặt nên không có lời khai của chị L trong hồ sơ vụ án. Tòa án cũng đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho các bên đương sự, nhưng chị L không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho chị L theo khoản 3 điều 210 BLTTDS. Anh Th đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị L cũng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, anh Th đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ điều 227, điều 228, điều 238 của BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Th và chị L.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho anh Th được ly hôn chị L. Về con cái: giao cháu Bùi Thị Bảo Châu - sinh ngày 01/9/2017 cho anh Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản: Anh Th không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Anh Th chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Bùi Văn Th và chị Bùi Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Lương Ngoại, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 30/7/2018 và không vi phạm điều 8 Luật hôn nhân và gia đình là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn.

Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp tính nhau nên thường xuyên bất đồng nhau về quan điểm và lối sống, hay xảy ra cãi vã bất hòa, không có tiếng nói chung. Hiện tại vợ chồng đã ly thân nhau không ai quan tâm đến ai. Việc này đã được bố đẻ chị L là ông Bùi Văn Quản xác nhận, phù hợp với nội dung xác minh tình trạng hôn nhân của Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh Bùi Văn Th được ly hôn chị Bùi Thị L để giải phóng cho nhau là cần thiết và phù hợp pháp luật.

[2] Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Bùi Thị Bảo Châu - sinh ngày 01/9/2017. Từ khi vợ chồng ly thân nhau cháu Bảo Châu ở với anh Th, do anh Th trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Th có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Bảo Châu, không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, từ trước đến nay và khi vợ chồng ly thân nhau, cháu Bảo Châu do anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Về phía chị L không trực tiếp nuôi dưỡng cháu và không có quan điểm gì. Để đảm bảo khả năng phát triển bình thường và điều kiện học hành ổn định cho con trẻ, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của cháu. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của anh Th, tiếp tục giao cháu Bảo Châu cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế và các quy định của pháp luật.

[3] Về tài sản: Anh Th không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Anh Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Khon 1 điều 28, khoản 4 điều 207, điểm a, b khoản 2 điều 227, điều 228, điều 238, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho anh Bùi Văn Th được ly hôn chị Bùi Thị L.

Về con cái: Giao cháu Bùi Thị Bảo Châu - sinh ngày 01/9/2017 cho anh Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị L có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Anh Bùi Văn Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh Th đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bá Thước, theo biên lai số AA/2019/0007355 ngày 20/05/2020. Anh Th đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt anh Bùi Văn Th và chị Bùi Thị L. Anh Th và chị L có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:138/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về