Bản án 138/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 138/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố B (TP. B), tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2019/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Nguyễn Quốc T; sinh ngày: 17 tháng 11 năm 2000; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: Thôn X, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số M đường N, xã L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Nguyễn Hoàng Q và bà: Nguyễn Thị Lệ Th; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 16/08/2019 đến nay, có mặt

2/ Họ và tên: Vũ Đức T; tên gọi khác: Lỳ; sinh ngày: 21/08/2000; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: Tổ N, Phường V, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Số H đường Y, Phường K, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Vũ Đức T và bà: Nguyễn Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 07/07/2015 T bị Tòa án nhân dân TP. B xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản, theo Bản án số 51/2015/HSST. Tại thời điểm phạm tội T chưa đủ 16 tuổi nên được coi là không có án tích. Ngày 04/05/2016, T bị Công an TP. B xử phạt Cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-XPHC. Ngày 05/10/2016 T bị Công an TP. B xử phạt Cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 128/QĐ-XPHC, bị tạm giam từ ngày 16/08/2019 đến nay, có mặt.

3/ Họ và tên: Nguyễn Thiện Phước Tr; Tên gọi khác: Lỳ; sinh ngày 04 tháng 9 năm: 1998; tại: Lâm Đồng; NĐKNKTT: Tổ Y, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Hẻm A đường L1, phường L, TP. B, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; trình độ văn hóa: 05/12; nghề nghiệp: Không; con ông: Nguyễn Thiện Đ và bà: Phạm Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 16/08/2019 đến nay, có mặt.

- Bị hại: Vũ Thị Ph; sinh năm 1967; trú tại: Số M, đường Đ, phường L, TP. B, Lâm Đồng; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 13/08/2019, Nguyễn Quốc T, Vũ Đức T Nguyễn Thiện Phước Tr đi bộ đến khu vực chùa K, thuộc đường L1, Tổ Y, phường L, TP. B, thấy trong sân có nhiều xe mô tô không có người trông coi nên T rủ Tr T trộm cắp xe. T thấy sân chùa có gắn camera an ninh nên nói Tr T biết và cùng nhau đến khu vực tháp chuông trong chùa để tránh khỏi tầm quan sát. T Tr đứng cảnh giới, T đi tới khu vực để xe, thấy xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, màu đen – đỏ, biển số 49K1-274.92 của chị Vũ Thị Ph, trú tại số M đường Đ, phường L, TP. B không khóa cổ nên T dắt xe này cùng Tr T rời khỏi khuôn viên chùa. Đến bãi đất giáp ranh giữa chùa K và hẻm số M đường L1, phường L, TP. B, T bị ngã và bị xe mô tô đè lên người. Lo sợ bị mọi người phát hiện nên nhóm của T để lại xe mô tô nêu trên, rồi đi bộ về nhà Nguyễn Đăng Kh, tại hẻm C đường L1, phường L, TP. B và hẹn quay lại mang xe đi bán sau. Khoảng 20 giờ cùng ngày, chị Vũ Thị Ph phát hiện mất xe nên đến Công an phường L, TP. B trình báo. Cơ quan điều tra đã phát hiện và tạm giữ xe mô tô biển số 49K1-274.92 tại bãi đất nêu trên. Đến 22 giờ cùng ngày, nhóm của T quay lại tìm xe mô tô biển số 49K1-274.92 nhưng thấy Cơ quan điều tra đang làm việc nên bỏ về. Đến sáng ngày 14/08/2019, T, Tr T bị Cơ quan điều tra triệu tập làm việc và đã khai nhận T bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Kết luận số 90 ngày 15/08/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. B xác định: Xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, màu đen – đỏ, biển số 49K1-274.92 trị giá 13.200.000 đồng (Mười ba triệu hai trăm ngàn đồng).

Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển số 49K1-274.92 cho chị Vũ Thị Ph.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Ph đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã nêu, không thắc mắc khiếu nại đối với nội dung bản cáo trạng, các bị cáo nhận thức hành vi nêu trên của mình là vi phạm pháp luật.

Bản Cáo trạng số 122/CT-VKSBL ngày 08 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân TP. B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T, Vũ Đức T Nguyễn Thiện Phước Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Khoảng 19 giờ ngày 13/08/2019, tại khu vực chùa K, thuộc phường L, TP. B, Nguyễn Quốc T, Vũ Đức T Nguyễn Thiện Phước Tr đã lén lút lấy trộm của chị Vũ Thị Ph 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, biển số 49K1-274.92 trị giá 13.200.000 đồng. Hành vi của Nguyễn Thiện Phước Tr cùng Nguyễn Quốc T Vũ Đức T đã vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo T từ 06 đến 09 tháng tù; xử phạt bị cáo Tr từ 06 đến 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo T từ 09 đến 12 tháng tù và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu nên không đề cập giải quyết. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an TP. B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Nguyễn Quốc T, Vũ Đức T Nguyễn Thiện Phước Tr đã lén lút trộm cắp của chị Vũ Thị Ph 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, trị giá 13.200.000 đồng (mười ba triệu hai trăm ngàn đồng). Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định trong Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho các bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo T, Tr phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành, tuy nhiên bị cáo T là người đề xướng và cũng là người trực tiếp thực hiện tội phạm; bị cáo T tuy là người giúp sức nhưng có nhân thân xấu, do vậy cần áp dụng hình phạt đối với bị cáo T, T cao hơn Tr.

Xét thấy: Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[4] Xử lý vật chứng: Cơ quan Điều tra đã xử lý nên không xem xét.

[5]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quốc T, Vũ Đức T Nguyễn Thiện Phước Tr phạm tội “ Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/08/2019; xử phạt bị cáo Nguyễn Thiện Phước Tr 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/08/2019;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Vũ Đức T 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/08/2019;

2/ Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết số 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:138/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về