Bản án 138/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 138/2019/HSST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 132/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Chu Văn T, sinh năm 1990 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Chu Văn và bà Trần Thị T; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/4/2019. Có mặt.

Người làm chứng:

- Anh Đặng Hữu M, sinh năm 1991, vắng mặt.

- Anh Trần Thanh H, sinh năm 1992, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 07/4/2019, Chu Văn T đang đi bộ trên đường dân sinh của Tiểu khu X, thị trấn N, huyện M thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông, qua trao đổi T đã hỏi và mua được của người đàn ông đó 11 viên hồng phiến với giá 500.000đ. Từ ngày 07/4/2019 đến ngày 11/4/2019 T đã sử dụng hết 06 viên, còn lại 05 viên T gói lại như cũ và cất giấu vào trong túi quần đang mặc trên người. Đến 12 giờ 30 phút ngày 11/4/2019, T điều khiển xe máy có BKS: 26… – 387…. đi đến Tiểu khu Y, thị trấn M để giải quyết công việc, khi đi T mang theo số ma túy trên. Khi T đang đi trên đường dân sinh của Tiểu khu Y, thị trấn N thì gặp Đặng Hữu M, sinh năm 1991, cư trú tại: Tiểu khu Y, thị trấn N và Trần Thanh H, sinh năm 1992, cư trú tại: Tiểu khu Z, thị trấn N đang đi bộ trên đường mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Qua trao đổi, T đã bán cho M 05 viên hồng phiến với giá 350.000đ, sau đó M và H đi vào đồi mận thuộc tiểu khu Y, thị trấn N lấy ma túy ra sử dụng. Khi M và H vừa sử dụng xong thì tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ, kiểm tra, phát hiện, lập biên bản, đồng thời thu giữ: 01 chiếc bật lửa ga mầu trắng, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy, 01 mảnh nilon màu trắng. Đối với số tiền 350.000đ T đã trả nợ cho anh Lê H, sinh năm 1977, trú tại: Tiểu khu K, thị trấn N. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã thu giữ số tiền nêu trên.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành xét nghiệm ma túy bằng Test thử nhanh đối với Đặng Hữu M và Trần Thanh H. Kết quả kiểm tra xác định M và H đều dương tính với Methamphetamine.

Ngày 11/4/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu đã thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Chu Văn T. Tạm giữ của T: 01 chiếc xe máy Yamaha có BKS: 26…. – 387…...

Bản cáo trạng số 132/CT-VKSMC ngày 04/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Chu Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Chu Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Chu Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ của: Đặng Hữu M + Trần Thanh H, bắt ngày: 11/4/2019: Bên trong đựng 01 bật lửa + 01 giấy bạc + 01 mảnh nilon cùng 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Đặng Hữu M; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Trần Thanh H; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Chu Văn T và 01 phong bì niêm phong niêm phong bên ngoài ghi mẫu vật hoàn trả sau giám định số tiền 350.000đ vụ Chu Văn T.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 350.000đ thu giữ của Chu Văn T.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Chu Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản thu giữ niêm phong vật chứng; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 11/4/2019 Chu Văn T đã có hành vi bán trái phép cho Đặng Hữu M 05 viên Methamphetamine với giá 350.000đ . Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng đã sử dụng ma tuý, bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc xe máy Yamaha có BKS: 26… – 387…. thu giữ của Chu Văn T. Quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản hợp pháp của bà Trần Thị T (mẹ đẻ bị cáo). Bà T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Ngày 16/5/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mộc Châu đã giao trả chiếc xe trên cho bà T quản lý, sử dụng là đúng pháp luật, do đó không đề cập đến việc giải quyết.

Đối với số tiền 350.000đ thu giữ của Chu Văn T là tiền do T bán ma túy cho Đặng Hữu M và Trần Thanh H mà có. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ của: Đặng Hữu M + Trần Thanh H, bắt ngày: 11/4/2019: Bên trong đựng 01 bật lửa + 01 giấy bạc + 01 mảnh nilon cùng 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Đặng Hữu M; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Trần Thanh H; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Chu Văn T và 01 phong bì niêm phong niêm phong bên ngoài ghi mẫu vật hoàn trả sau giám định số tiền 350.000đ vụ Chu Văn T, xét không có giá trị sử dụng. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Chu Văn T ngày 07/4/2019 (như bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đặng Hữu M và Trần Thanh H là hành vi vi phạm hành chính. Ngày 16/5/2019, Công an huyện Mộc Châu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Chu Văn T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Chu Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 11/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 350.000đ (Ba trăm, năm mươi nghìn đồng chẵn) thu giữ của Chu Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ của: Đặng Hữu M + Trần Thanh H, bắt ngày: 11/4/2019: Bên trong đựng 01 bật lửa + 01 giấy bạc + 01 mảnh nilon cùng 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Đặng Hữu M; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Trần Thanh H; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi 01 que test thử ma túy của Chu Văn T và 01 phong bì niêm phong niêm phong bên ngoài ghi mẫu vật hoàn trả sau giám định số tiền 350.000đ vụ Chu Văn T.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Chu Văn T phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:138/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về