Bản án 138/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 138/2018/HS-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 122/2018/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2018/QĐXX-HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Trịnh Văn H, sinh năm 1970, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trịnh Văn K và bà Hoàng Thị H; có vợ là Đỗ Thị V và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Có 01 tiền án đã xóa án tích: Bản án số 59 ngày 26/4/2012 tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 30 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tạm giữ ngày 02/6/2018; tạm giam ngày 05/6/2018; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Hồng T, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 5h ngày 01/6/2018 Trịnh Văn H đi xe moto BKS: 16M- 5046 từ nhà đến khu vực chắn tàu đường Trần Nguyên Hãn để tìm mua heroin về sử dụng cho bản thân. Khi tới nơi H điều khiển xe đi vào đường tàu về hường Cầu Quay được khoảng 150m đến trước cửa 01 ngôi nhà có nhiều người nghiện cũng đang mua ma túy. H cầm 100.000 đồng đưa qua khe hở trên cửa nhà nói “cho con hàng”, người nam giới bên trong nhận tiền và đưa lại cho H 01 gói giấy màu tím bên trong chứa heroin. H cầm số ma túy mua được ở tay trái điều khiển xe ra về khi tới trước cửa nhà số 72/44 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị tổ công tác công an phường Cát Dài kiểm tra, H đã vứt số ma túy trên ngay cạnh chân nơi H đứng. Tổ công tác đã thu giữ số ma túy và dẫn giải H cùng vật chứng về trụ sở công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang ngoài ra còn thu giữ của H 01 xe moto BKS: 16M- 5046.

Tại bản kết luận giám định số 273 ngày 03/6/2018 của phòng kĩ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng kết luận chất bột trong 01 gói giấy thu giữ của H có trọng lượng 0,1615 gam là loại heroin.

Tại cơ quan điều tra Trịnh Văn H khai nhận như nội dung trên. H không xác định được lai lịch người bán ma túy và không nhớ địa chỉ nơi H đã mua ma túy.

Tại bản cáo trạng số 133/CT-VKS ngày 27/8/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Trịnh Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Văn H khai nhận đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội đồng thời phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo và đề nghị:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm p, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trịnh Văn H mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng số ma túy còn lại sau giám định.

- Về các vấn đề khác:

Đối với nam giới bán ma túy cho Hùng quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được căn cước lai lịch nên chưa có cơ sở để điều tra nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Đối với 01 xe moto BKS: 16M- 5046 quá trình điều tra xác định đây là xe của bà Trịnh Thị H1 là chị gái của H, khi mượn xe H chỉ mượn xe để đi chợ nên bà H1 không biết H dùng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị H1.

Về án phí: Do bị cáo là người tàn tật nên căn cứ vào điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo H.

Người bào chữa của bị cáo phát biểu ý kiến tranh luận: Người bào chữa không có ý kiên gì về tội danh. Nhưng xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo chỉ để sử dụng cho bản thân, lượng ma túy bị cáo tàng trữ là thấp; hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người khuyết tật nặng hiện đang hưởng trợ cấp hàng tháng với mức trợ cấp là 405.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người khuyết tật, đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, không có nghề nghiệp nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Về án phí: Theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định người khuyết tật được miễn án phí nên đề nghị miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ thể hiện: Vào khoảng 06h00’ ngày 01/6/2018, Trịnh Văn H đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1615 gam chất bột là loại Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt giữ tại khu vực trước cửa nhà số 72/44 Trần Nguyên Hãn, Cát Dài, quận Lê Chân, Hải Phòng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện và là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án. Bị cáo có một tiền án đã được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Nhưng qua đó cho thấy bị cáo là người có nhân thân xấu do vậy phải xử lý nghiêm để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, hình phạt bổ sung: [4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, hiện đang hưởng trợ cấp tàn tật tại Ủy ban nhân dân xã Hữu Bằng, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt theo quy định tại điểm p, s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Do bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Lượng ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Về các vấn đề khác:

[8] Đối với nam giới bán ma túy cho H quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được căn cước lai lịch nên chưa có cơ sở để điều tra nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Đối với 01 xe moto BKS: 16M- 5046 quá trình điều tra xác định đây là xe của bà Trịnh Thị H1 là chị gái của H, khi mượn xe H chỉ mượn xe để đi chợ nên bà H1 không biết H dùng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị H1.

- Về án phí:

[10] Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm p, s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xử phạt: Trịnh Văn H 18 (Mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 24 tháng 7 năm 2018.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy còn lại sau giám định.

(Theo đúng biên bản giao, nhận tài sản vật chứng ngày 27/8/2018 giữa Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân).

Về án phí: Bị cáo Trịnh Văn H được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2018/HS-ST ngày 11/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:138/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về