Bản án 138/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về tranh chấp ly hôn và con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 138/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ CON CHUNG

Trong ngày 12/9/2018 tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 232/2018/TLST – HNGĐ ngày 12/4/2018 về “Tranh chấp ly hôn và con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2018/QĐXXST– HNGĐ ngày 26/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 153/2018/QĐST – HNGĐ ngày 21/8/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1963.

Địa chỉ: A, tổ B, khu PH, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu S, sinh năm 1970.

Địa chỉ: A, tổ B, khu PH, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

Ông H có mặt, bà S vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn, ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị Thu S tự nguyện kết hôn với nhau năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn LT. Trong thời gian 03 năm trở lại đây, vợ chồng ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng không thể giải quyết được. Mặc dù đã cố gắng hòa hợp nhưng không khắc phục được mâu thuẫn. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông xin ly hôn.

Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Đức N, sinh ngày 20/8/1996; Nguyễn Trọng T, sinh ngày 17/4/2003. Cháu Nghĩa đã trưởng thành, ông xin nuôi dưỡng cháu Tín, không yêu cầu bà S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận. Về nợ chung: không có.

* Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên không có lời khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành có ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký: Về việc thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật, tư cách tố tụng, về việc xác minh, thu thập các tài liệu chứng cứ vụ án và thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử đều được Thẩm phán thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

- Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa ông H và bà S được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên được pháp luật bảo vệ. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: cháu Nguyễn Đức N, sinh ngày 20/8/1996 đã trưởng thành. Đề nghị giao cháu Nguyễn Trọng T, sinh ngày 17/4/2003 cho ông H nuôi dưỡng, tạm thời bà S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận.

Về nợ chung: không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị Thu S có hộ khẩu thường trú tại thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai nên Tòa án nhân dân huyện Long Thành thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật: Ông Nguyễn Văn H khởi kiện xin được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu S và giải quyết vấn đề con chung, Tòa án nhân dân huyện Long Thành căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ là “Tranh chấp ly hôn và con chung”.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu S đã được Tòa án triệu tập đến tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Nội dụng vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Thu S tự nguyện kết hôn với nhau năm 1994, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn LT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Hôn nhân giữa ông H và bà S là hôn nhân hợp pháp nên khi có yêu cầu ly hôn, Tòa án áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Theo ông H thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp được. Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông xin được ly hôn.

Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Long Thành đã xác minh mâu thuẫn của vợ chồng tại địa phương thì được biết: Khoảng năm 2016, vợ chồng ông H, bà S phát sinh mâu thuẫn do bà S cờ bạc, ông H đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng bà S không thay đổi.

Qua tài liệu, chứng cứ do ông Nguyễn Văn H cung cấp thì ngày 24/6/2017 vợ chồng ông H, bà S đã thỏa thuận chia tài sản chung trước sự chứng kiến của Văn phòng luật sư Yên Lam.

Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông H, bà S là có thật, ông bà đã tự phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến làm việc, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng bà S vẫn vắng mặt không có lý do chứng tỏ bà S không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình nữa. Do đó, chấp nhận đơn xin ly hôn của ông H, cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu S là phù hợp.

Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Đức N, sinh ngày 20/8/1996; Nguyễn Trọng T, sinh ngày 17/4/2003. Cháu N đã trưởng thành, có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không đặt ra xem xét giải quyết. Do bà S vắng mặt, không có lời khai và cháu T cũng có nguyện vọng được ở với bố nên giao cháu Tín cho ông H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, tạm thời bà S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chưa có ý kiến của bà S nên không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí HNGĐ- ST: Ông H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 203, 220; khoản 1 Điều 227; khoản 3 Điều 228, 235, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy  định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn H.

Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thu S.

Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Đức N, sinh ngày 20/8/1996; Nguyễn Trọng T, sinh ngày 17/4/2003. Cháu Nghĩa đã trưởng thành, có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Giao cháu Tín cho ông H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, tạm thời bà S không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà S được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì quyền lợi của trẻ, khi cần thiết các bên được quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí HNGĐ – ST: Ông H phải nộp 300.000đ, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên lai thu số 002102 ngày 10/4/2018.

Ông H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 138/2018/HNGĐ-ST ngày 12/09/2018 về tranh chấp ly hôn và con chung

Số hiệu:138/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về