TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 138/2017/HSPT NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (11 Tôn Đức Thắng, thành phố Huế) xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 126/2017/HSPT ngày 08/9/2017 đối với bị cáo Phạm Hồ Hữu D và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Hữu D và Nguyễn Đ đối với bản án hình sự sơ thẩmsố 20/2017/HSST ngày 04/8/2017 của Toà án nhân dân huyện Phú Vang.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Họ và tên: Phạm Hồ Hữu D, sinh ngày 21/02/1993; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ dân phố HB, thị trấn TA, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 10/12; họ và tên cha: Phạm Văn D; họ và tên mẹ: Hồ Thị C; anh chị em ruột: có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ: Hồ Thị H; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: 03.
Quá trình nhân thân: Nhỏ sống với bố mẹ học hết lớp 10/12 thì nghỉ học ở nhà phụ giúp gia đình. Năm 2013 lập gia đình sống ở tổ dân phố HB, thị trấn TA, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 02/6/2016, bị Công an thị trấn Thuận An huyện Phú Vang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 059909 với số tiền 750.000đ, về hành vi “Cố ý gây thương tích” đối với Nguyễn Văn Hay xảy ra ngày 17/04/2016.
Ngày 02/6/2016, bị Công an thị trấn Thuận An huyện Phú Vang ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01098 với số tiền 750.000đ, về hành vi “Cố ý gây thương tích” đối với Nguyễn Hồng Phước xảy ra ngày 09/5//2016.
Ngày 30/12/2016, bị UBND thị trấn Thuận An ra quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường trong thời hạn 06 tháng về hành vi “cố ý gây thương tích”.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/02/2017. Có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Đ, sinh ngày 10/3/1997; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ dân phố HT, thị trấn TA, huyện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Thợ may; trình độ văn hóa: 8/12; họ và tên cha: Nguyễn B; họ và tên mẹ: Trần Thị T; anh chị em ruột: có 07 anh chị em, bị cáo là con út; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/02/2017. Có mặt tại phiên tòa.
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Vang và bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Phú Vang, nội dung vụ án được xác định như sau:
Do trước đây Phạm Hồ Hữu D và Tống Văn S có mâu thuẫn với nhóm của Nguyễn Thái T (sinh năm 1995, ở tổ dân phố HB, thị trấn TA) nên khoảng 15 giờ ngày 08/02/2017, Tống Văn S đi ngang qua nhà của Trần Trọng N (sinh năm 1995, trú tại tổ dân phố HT, thị trấn TA) thì thấy T đang ngồi nhậu trong nhà N cùng với Đỗ Văn S1 (sinh năm 1995), Trần Văn H (sinh năm 1998) đều ở tổ dân phố HT, thị trấn TA, Đặng Nhật Tr (sinh năm 2000), Dương Quốc T1 (Luýt, sinh năm 2000), Mai Nguyễn Minh H (Gô, sinh năm 1999) và Đặng Hữu Th (sinh năm 1996) đều ở xã PD, huyện PV. S đến quán internet ĐĐ, ở tổ dân phố HT, thị trấn TA nhắn tin trên Facebook cho Phạm Hồ Hữu D, nhưng D không trả lời. S đi ra thì gặp Nguyễn Đ, S nói với Đ: “T đang nhậu trong nhà N”. Do trước đó D có dặn Đ khi nào gặp T thì báo cho D nên Đ điện thoại nói với D: “T đang nhậu tại nhà của N”. Lúc này, D đang đi chơi cùng với Huỳnh Hải Thuyên Th1 nên D bảo Th1 về nhà Phạm Anh T1 (Vầm, sinh năm 1990, ở tổ dân phố MH, thị trấn TA). Th1 điều khiển xe mô tô BKS 75R2- 0516 (xe này của chị Huỳnh Hải Thùy N, sinh năm 1978, ở tổ dân phố AH, thị trấn TA, chị gái của Th1) chở D đến nhà T1. D rủ T1 đi đánh T nhưng T1 nói: “Ban mày, ban mặt thôi đừng nữa”, D nói lại lên quán cà phê rồi tính. D đến nhà Bùi Quang L (Cu em Mày, sinh năm 1989, ở tổ dân phố AH, thị trấn TA) lấy 01 cây mã tấu mà Lđã lấy của D trước đó. D điều khiển xe mô tô 75R2-0516 chở Th1 và T1 đến quán cà phê của D ở tổ dân phố An H, thị trấn TA thì gặp H và Đ. D rủ H đi đánh T, H đồng ý. D vào trong quán lấy 02 cây mã tấu và 01 cây rựa bỏ trong bao. Đ điều khiển xe mô tô BKS 75G1-210.83 (xe này của Trần Hữu H, sinh năm 1995, ở tổ dân phố HT, thị trấn TA) chở D và H, còn Th1 điều khiển xe mô tô 75R2-0516 chở T1 đến quan internet ĐĐ. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, D, H, Đ, Th1 và T1 đến quán internet ĐĐ và gặp S, D nói với S: “ nó đánh mi thì mi đi trước”. D đưa bao đựng hung khí ra, T1 nói: “Thôi D ơi, ban ngày ban mặt vào nhà họ là tao không vào” nhưng D không nghe. Khi đi, S nhặt 02 cục đá đi trước, H cầm 01 cây mã tấu tự chế liền cán bằng kim loại màu trắng đi sau, tiếp theo D cầm 01 cây rựa, Đ cầm 01 cây mã tấu tự chế cán gỗ có hình đầu rồng và Th1 cầm 01 cái mã tâu tự chế cán có quấn băng keo đen đi bộ đến nhà N. Tại nhà của anh N, S đi vào trước, T lấy cây dao Thái Lan cán màu vàng dài 21cm đứng dậy nói: “đứa mô ngon thì vô đây”. Thấy vậy, H và D lấy hung khí dấu trong người ra và đi vào thì nhóm bạn của T bỏ chạy. T1 đứng ngoài đường nói: “Thôi D ơi, mi còn vợ còn con”, nhưng D, H, S, Đ, Th1 vẫn đi vào nhà N. T bỏ chạy ra sau nhà N, H và S chạy theo T. D đi theo hướng cửa chính đến cầu thang thì gặp T, T chạy ra lại khu vực nhà tắm thì gặp H và S. T cầm dao Thái Lan quơ qua quơ lại thì D cầm rựa xông vào chém T 01 nhát trúng vào tay, H cầm mã tấu chém T trúng vào chân, S cầm 02 cục đá ném vào bụng T. Sau đó, D và H dùng rựa và mã tấu chém nhiều nhát trúng vào tai, tay, chân của T, T bị ngã xuống nền nhà thì D và H không chém nữa. Lúc này, Đ cầm mã tấu cán gỗ hình đầu rồng chạy vào chỗ nhóm T đang nhậu khống chế H và S1, sau đó chạy vào chỗ T bị chém, nhưng không chém ai cả. Th1 cầm mã tấu có quấn băng keo đen chạy vào chỗ D và H chém T, nhưng không chém T, rồi chạy ra đưa mã tấu cho S. Cả nhóm về quán internet ĐĐ dấu 03 cây mã tấu và 01 cây rựa ở quán rồi bỏ đi. Hậu quả anh Nguyễn Thái T bị thương được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện TW Huế đến ngày 16/02/2017 xuất viện.
Ngày 09/02/2017, Trung tâm pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế đã có Bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số 24-17/TgT, kết luận đối với thương tích của anh Nguyễn Thái T như sau:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết thương phần mềm vùng tai phải: 1%
- Đa vết thương phần mềm cẳng tay phải (03 vết) mẻ xương trụ: 5%
- Đa vết thương tay trái (vai và cẳng tay) gãy hở phức tạp xương trụ trái đã điều trị kết hợp xương: 10%
- Đa vết thương phần mềm bàn chân trái (2 vết): 3%
- Chấn thương gãy xương bàn II chân trái đã kết hợp xương: 3%
- Vết thương đứt xương bàn IV-V bàn chân phải đã kết hợp xương: 10%
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể chung do thương tích gây nên hiện tại là: 28%
3. Kết luận vật gây thương tích: Vết thương tay phải do vật sắc.
Đa vết thương cẳng tay phải do vật sắc.
Đa vết thương tay trái do vật sắc.
Tổn thương gãy phức tạp xương trụ trái do vật tày có cạnh với lực rất mạnh. Vết thương đứt xương bàn IV-V bàn chân phải do vật sắc.
Vết thương phần mềm bàn chân trái do vật sắc.
Tổn thương gãy xương bàn II chân trái do vật tày.”
* Vật chứng vụ án:
- 01 (một) đồng hồ màu đen, mặt đồng hồ màu đen bị vỡ mặt gương, dây đen bị đứt, mặt đồng hồ tròn đường kính 3cm, trên mặt đồng hồ có chữ “Rado”
- 01 (một) đôi dép, loại dép có quai hậu, dép da màu đen đế có viền trắng, mặt trên đế dép và quai dép có dòng chữ “ddida” màu trắng. Dép có chiều dài 0,27m, gót rộng 8cm, bản rộng 10 cm, còn mới.
- 01 (một) đôi dép hai quai xỏ ngón bằng da màu trắng đen. Đế dép màu đen có viền trắng, mặt trên quai màu trắng, Dép có chiều dài 0,28m, gót rộng 8cm, bản rộng 10 cm. Trên quai mỗi chiếc dép có hàng chữ bằng kim loại màu sáng “HERMES”.
- 01 (một) xe mô tô BKS 75R20516, nhãn hiệu YAMAHA – EXCITER, màu sơn Vàng – Đen, số máy 1S94-055232, số khung: RLCE1S940 – AY055231.
- 01 (một) xe mô tô 75G1-210.83, nhãn hiệu YAMAHA – EXCITER, màu sơnXanh – Bạc, số máy G3D4E139640, số khung: 0610FY127037.
Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Phú Vang đã trả lại cho chủ sở hữu. Còn lại gồm:
- 01 (một) cái rựa, dài 64cm, mũi nhọn lưỡi cong dài 30cm, chỗ rộng nhất là5,5 cm, cán bằng tre, hình trụ tròn
- 01 (một) cái mã tấu, dài 55cm, mũi nhọn, lưỡi dao dài 39cm, chỗ rộng nhất là5,5cm, lưỡi liền cán cán hình trụ tròn.
- 01 (một) cái mã tấu dài 61cm, mũi nhọn, lưỡi cong dài 17cm, chỗ rộng nhất là 4cm, cán bằng gỗ.
- 01 (một) cái mã tấu dài 63cm, mũi nhọn, lưỡi dao dài 47cm, chỗ rộng nhất là 3cm, cán dao có quấn băng keo màu đen.
- 01 (một) cây dao dài 21cm, lưỡi dao bằng kim loại màu sáng, mũi nhọn, một cạnh sắc dài 12cm, rộng 2,5cm. Cán dao bằng nhựa màu vàng dài 10cm, rộng 2,5cm.
- 01 (một) mãnh gạch vỡ diện 7cmx5cmx9,5cm.
- 01 (một) mãnh vỡ đá xi măng có diện 10cmx7,5cmx5cm.
Hiện Chi Cục thi hành án dân sự huyện Phú Vang đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 05/KSĐT ngày 22/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Vang.
* Về trách nhiệm dân sự: Gia đình các bị cáo đã bồi thường cho anh Nguyễn Thái T 30.500.000đ. Anh T không yêu cầu gì thêm, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 20/2017/HSST ngày 04/8/2017 của Toà ánnhân dân huyện Phú Vang đã quyết định:
- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Hồ Hữu D 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 09/02/2017.
- Áp dụng Khoản 2 Điều 104; điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đ 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 09/02/2017.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên hình phạt đối với bị cáo Nguyễn văn H Tống Văn S, Huỳnh Hải Thuyên Th1, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 14/8/2017 bị cáo Phạm Hồ Hữu D và ngày 09/8/2017 bị cáo Nguyễn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ một phần hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
XÉT THẤY
Đã có cơ để kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/02/2017, Phạm Hồ Hữu D, Nguyễn Văn H, Tống Văn S, Nguyễn Đ và Huỳnh Hải Thuyên Th1 đã xông vào nhà Trần Trọng N ở tổ dân phố HT, thị trấn TA, huyện PV dùng rựa, mã tấu, đá là hung khí nguy hiểm chém, ném vào anh Nguyễn Thái T gây thương tích ở tai, hai tay, hai chân với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 28% (Hai mươi tám phần trăm). Trong đó, D cầm rựa xông vào chém T 01 nhát trúng vào tay, sau đó, D và H dùng rựa và mã tấu chém nhiều nhát trúng vào tai, tay, chân của T, T bị ngã xuống nền nhà thì D và H không chém nữa. Đ cầm mã tấu cán gỗ hình đầu rồng chạy vào chỗ nhóm T đang nhậu khống chế H và S1, sau đó chạy vào chỗ T bị chém nhưng không chém ai. Hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất côn đồ.
Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Phạm Hồ Hữu D, Nguyễn Văn H, Tống Văn S, Nguyễn Đ và Huỳnh Hải Thuyên Th1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Khoản 2 Điều 104 của Bộ luật Hình sự với các tình tiết định khung quy định tại các Điểm a, i Khoản 1 Điều 104 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Hồ Hữu D, Nguyễn Đ thấy rằng: Đây là vụ án mang tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội, côn đồ, hung hãn, xem thường pháp luật và sức khỏe của người khác được pháp luật bảo hộ, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý thích đáng để giáo dục và phòng ngừa.
Trong vụ án này, Phạm Hồ Hữu D là người cầm đầu, rủ rê, chuẩn bị hung khí để thực hiện hành vi phạm tội và là người trực tiếp dùng rựa chém nhiều nhát vào tai, tay, chân của bị hại là anh Nguyễn Thái T gây thương tích nên phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Bị cáo Phạm Hồ Hữu D có N thân xấu, có 03 tiền sự về hành vi “Cố ý gây thương tích”, chưa được xóa. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo Nguyễn Đ không có mâu thuẫn gì nhưng bị cáo vẫn giúp sức để các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực nên phải chịu trách nhiệm với vai trò là người giúp sức trong vụ án này.
Các bị cáo không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo được hưởng là: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được quy định tại các Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
Mức án 04 năm tù mà cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo Phạm Hồ Hữu D, 02 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Đ 02 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đã cân nhắc, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đặc điểm nhân thân của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phạm Hồ Hữu D, Nguyễn Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Áp dụng Khoản 2 Điều 104; Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Phạm Hồ Hữu D 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 09/02/2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đ 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt tạm giam 09/02/2017.
Án phí hình sự phúc thẩm, mỗi bị cáo pH chịu 200.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể, từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 138/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 138/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về