Bản án 137/2021/HSST ngày 16/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 137/2021/HSST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 185/2021/HSST, ngày 24 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 230/2021/HSST-QĐ ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T (tên gọi khác: không); Sinh ngày: 20/10/1983; Nơi cư trú: thôn DKb (thôn x cũ), xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: sửa xe đạp; Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1954 và con bà:

Nguyễn Thị P, sinh năm 1958; Vợ: Ngô Thanh H, sinh năm 1983 và có 01 con; Tiền sự: không; Tiền án: năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 41/2019/HSST, ngày 18/4/2019. Đã chấp hành xong ngày 09/7/2019;

Nhân thân: - Năm 2002, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 15 tháng thử thách về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 07/HSST ngày 31/01/2002.

Năm 2005, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 12 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 50/2005/HSST ngày 21/6/2005. Chấp hành xong ngày 03/02/2006.

Năm 2006, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 06 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Bản án số 87/2006/HSST ngày 29/9/2006. Chấp hành xong ngày 13/01/2007.

Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 27 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 40/2011/HSST ngày 26/5/2011. Chấp hành xong ngày 08/3/2013.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 12/5/2021;

* Bị hại:

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987 Nơi cư trú: thôn x, xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1954;

Nơi cư trú: thôn ĐKb (thôn x cũ), xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

(vắng mặt) - Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1983 (vắng mặt) Nơi cư trú: xóm P, xã ĐT, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 20 phút ngày 10/5/2021, Nguyễn Văn T điều khiển xe đạp điện màu đen, hiệu ASAMA của ông Nguyễn Văn H (là bố T) từ nhà ở thôn ĐKb, xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đến khu vực thôn z, xã K, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Khi đi qua cửa hàng quảng cáo “Năm Cường” sát Quốc lộ 1A do chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987 (trú tại thôn z, xã K, huyện Diễn Châu) làm chủ. Thấy cửa quán mở, không có người trông coi, bên trong quán có để 01 (một) chiếc máy hàn màu đỏ, hiệu ASUKE, Nguyễn Văn T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, nên đã đi vào trong quán lấy chiếc máy hàn trên rồi để sau xe đạp điện chở đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1983, trú tại xóm P, xã ĐT, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An bán với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Số tiền này Nguyễn Văn Tâm tiêu xài cá nhân hết. Nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên trong ngày 12/5/2021, Nguyễn Văn T đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Kết luận định giá tài sản ngày 14/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản xác định: giá trị chiếc máy hàn là 1.400.000 đồng.

Về thu giữ và xử lý vật chứng vụ án: 01 chiếc máy hàn hiệu ASUKE, sơn màu đỏ, model: MMA-200I201820009. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu đã trả lại cho người bị hại theo quy định.

Cáo trạng số 138/CT-VKSDC, ngày 18/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đánh giá tính chất, hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo không có công việc làm ổn định, không có tài sản riêng có giá trị lớn nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, chị P đều đã nhận lại tài sản, không ai có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

- Về vật chứng: không xem xét.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận hành vi thực hiện đúng như cáo trạng truy kết, thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoạt động “Điều tra” “Truy tố”, đồng thời đã giải thích và tạo điều kiện để bị cáo, người bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thực hiện đúng và đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ, phù hợp với lời khai của người bị hại, như vậy đã đủ căn cứ để khẳng định: Vào khoảng 10 giờ 20 phút phút ngày 10/5/2021, tại cửa hàng quảng cáo “Năm Cường” (địa chỉ: thôn z, xã K, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An), lợi dụng sơ hở của chủ tài sản nên bị cáo đã có hành vi đột nhập vào cửa hàng chiếm đoạt chị Nguyễn Thị H (chủ cửa hàng) 01 chiếc máy hàn hiệu ASUKE, sơn màu đỏ, model: MMA-200I201820009, sau khi lấy được tài sản bị cáo đã bán cho chị Nguyễn Thị P (sinh năm 1983, địa chỉ: xóm P, xã ĐT, huyện Yên Thành) với giá 500.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Kết luận định giá tài sản ngày 14/5/2021 xác định, giá trị chiếc Máy hàn là 1.400.000 (một triệu bốn trăm ngàn) đồng, nhưng bị cáo có 01 tiền án về hành vi “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu truy tố bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng quy định pháp luât.

[3] Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, phạm tội với lỗi cố ý; lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản, điều đó đã thể hiện sự liều lĩnh, ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang bất an đối với người dân. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung. Nghĩ nên cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội như đề nghị của đại điện Viện kiểm sát là phù hợp.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 1 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích được xem là tình tiết định tội, không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã bị xét xử nhiều lần trong đó có 3 lần bị xét xử về loại tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản, 01 lần bị xét xử về loại tội phạm ma túy.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi của mình. Bị cáo đã tự nguyện đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tương ứng được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ Điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1; khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam bị cáo (12/5/2021).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 14. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2021/HSST ngày 16/07/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:137/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về