Bản án 137/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 137/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25/6/2019, Trụ sở Tòa án nhân dân, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 145/2019/HSST ngày 05 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Mạnh S, sinh năm 1997; Giới tính: Nam. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 354 tổ 15, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội; Nơi ở: Số 9A, ngõ 155/37/19 đường C, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đỗ Văn H, sinh năm 1966 và con bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm 1965; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ 3. Tiền án, tiền sự: Không. Danh bản và chỉ bản số: 185 do Công an quận Bắc Từ Liêm lập ngày 24/4/2019. Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ và giam từ ngày 18/4/2019, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội; Có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N, xã H, thành phố H, tỉnh Hưng Yên; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 17/4/2019, Đỗ Mạnh S sử dụng tài khoản Facebook “Mạnh S” đăng lên bán ma túy cần sa, thì Nguyễn Văn P sử dụng tài khoản Facebook “Phạm Dũng” nhắn tin hỏi mua. S đồng ý bán cho P 01 gói ma túy cần sa với giá 300.000 đồng rồi hẹn địa điểm mua bán tại khu vực cổng trường Cao Đẳng du lịch ngõ 238 Hoàng Quốc Việt, Cổ Nhuế 1, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đến khoảng 10 giờ ngày 18/4/2019, P nhắn số điện thoại 09420586** của P cho S để cả hai liên lạc mua bán ma túy. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, S mang theo 01 gói ma túy cần sa để trong túi quần bên trái đi xe máy BKS: 30P7-20* đến ngõ 238 Hoàng Quốc Việt, Cổ Nhuế 1, Bắc Từ Liêm, Hà Nội để gặp P. Khi thấy P, S lấy gói ma túy cần sa cầm trên tay trái, P đưa cho S số tiền 250.000 đồng, S chưa kịp giao ma túy cho P thì bị Công an phường Cổ Nhuế 1 phát hiện bắt quả tang, thu giữ gói ma túy cùng 250.000 đồng của S và thu giữ của P 50.000 đồng là số tiền còn lại P chưa kịp đưa cho S. Tổ công tác đã lập biên bản niêm phong tang vật và đưa về trụ sở để làm rõ.

Vật chứng thu giữ gồm:

Thu giữ của Đỗ Mạnh S:

- 01 túi nilon kích thước khoảng 3x5 cm viền miệng túi màu đỏ bên trong chứa thảo mộc khô;

- Số tiền 250.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu xám lắp số sim 09470999** (đã qua sử dụng);

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu bạc lắp BKS: 30P7-201* số máy 15764**, số khung 03855*, xe đã qua sử dụng.

Ngoài ra, Đỗ Mạnh S đã tự nguyện giao nộp: 07 túi nilon màu trắng viền miệng túi màu đỏ kích thước khoảng 3x5 cm bên trong chứa thảo mộc khô cất giấu tại nhà ở số 9A, ngõ 155/37/19 đường C, TP.Hà Nội cho Cơ quan Công an.

Thu giữ của Nguyễn Văn P:

- Số tiền 50.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam;

- 01 điện thoại Nokia 105 màn hình màu, có vỏ màu đỏ, bàn phím màu đen, bên trong có số sim 09420586**, máy đã qua sử dụng Ngày 18/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 433/CQĐT (ĐTMT) trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội giám định số ma túy thu giữ của Đỗ Mạnh S.

Tại bản kết luận giám định số 2491/KLGĐ-PC09 ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định:

- Thảo mộc khô bên trong 01 túi nilon (tang vật thu giữ khi bắt quả tang) là cần sa, khối lượng 0,908 gam;

- Thảo mộc khô bên trong 07 túi nilon (tang vật do Đỗ Mạnh S tự giao nộp) đều là cần sa, tổng khối lượng 6,791 gam Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Đỗ Mạnh S cho kết quả dương tính, có sử dụng ma túy.

Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Nguyễn Văn P cho kết quả âm tính, không sử dụng ma túy.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Mạnh S đã khai nhận nội dung như trên và khai khoảng 14 giờ ngày 16/4/2019, S đến khu vực Hồ Linh Đàm thuộc phường Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) mua 2.500.000 đồng được 01 túi nilon cần sa rồi về nhà tại số 9A ngõ 155/37/19 đường C, phường Q, quận C, thành phố Hà Nội chia thành 08 gói. Sau đó S mang 01 gói bán cho P, còn 07 gói cần sa S cất giữ với mục đích để sử dụng và có ai hỏi mua thì bán. Đây là lần đầu tiên S bán ma túy thì bị bắt giữ, chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu xám lắp số sim 09470999** mà Cơ quan Công an thu giữ là của S đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy với P.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn P khai phù hợp với lời khai của Đỗ Mạnh S. Đối với số vật chứng bị Cơ quan điều tra thu giữ, P khai: Số tiền 50.000 đồng là tiền P định trả nốt cho S để mua 01 gói cần sa; 01 điện thoại Nokia 105 lắp sim 09420586**, P sử dụng để liên lạc mua ma túy với S. Đối với Nguyễn Văn P có hành vi mua ma túy của S nhưng chưa nhận được ma túy từ S thì bị Cơ quan Công an phát hiện nên không đủ căn cứ để xử lý P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Đỗ Mạnh S, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra và xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu bạc lắp BKS: 30P7-2014 số máy 15764**, số khung 0385* thu giữ của Đỗ Mạnh S, S khai mượn xe trên của bố đẻ là anh Đỗ Văn H (Sinh năm: 1966, HKTT: Phường L, Đ, TP. Hà Nội) để làm phương tiện đi lại. Quá trình điều tra xác minh nguồn gốc xe mô tô xác định anh Nguyễn Trường G (sinh năm:1975, HKTT: Số 5, ngách 409/53 phố K, N, BĐ, TP. Hà Nội) mua mới và đăng ký xe năm 2010. Đến ngày 24/3/2019, do không có nhu cầu sử dụng, anh G bán chiếc xe trên cho anh Đỗ Văn H. Tại Cơ quan điều tra, anh Đỗ Văn H khai: Anh H mua xe mô tô trên của anh G. Sau đó anh H cho S mượn xe mô tô để đi sinh nhật bạn, việc S sử dụng xe mô tô để đi mua bán ma túy thì anh H không biết. Tra cứu xe không có trong dữ liệu vật chứng nên ngày 21/5/2019 Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe trên cho anh Đỗ Văn H, anh H nhận lại tài sản và không có ý kiến gì Tại bản cáo trạng số: 121/CT-VKS ngày 27/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội quyết định truy tố Đỗ Mạnh S về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ luận tôi, nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh S mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Do bị cáo không có công việc ổn định nên đề nghị Toà án không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị Toà án tuyên tịch thu tiêu huỷ số ma tuý là vật chứng của vụ án. Tịch thu sung quỹ Nhà nước tiền, điện thoại di động bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, rõ ràng, phù hợp với quy định của pháp luật; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, kết luận giám định, biên bản phạm pháp quả tang, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 18/4/2019, tại khu vực cổng trường Cao đẳng du lịch ngõ 238 Hoàng Quốc Việt, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành Hà Nội, Đỗ Mạnh S có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Văn P 01 gói ma túy cần sa khối lượng 0,908 gam nhưng P chưa kịp nhận ma túy từ S thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài ra, S còn tàng trữ 07 gói ma túy cần sa khối lượng 6,791 gam với mục đích bán cho các con nghiện. Đỗ Mạnh S phải chịu trách nhiệm về hành vi mua bán trái phép 7,699 gam cần sa. Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu hoàn thành của tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Xét hành vi của bị cáo Đỗ Mạnh S không thuộc trường hợp nào của tình tình tiết tăng nặng định khung ở Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự ở khung cơ bản của Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy, chính sách phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo Đỗ Mạnh S phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ, mục đích là để trục lợi. Bị cáo hiểu về tác hại mà ma tuý gây ra. Tuy nhiên, bị cáo lại mua Cần sa về để sử dụng và bán kiếm lời. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội nên áp dụng cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nhân thân của bị cáo, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn P công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội xử lý như trong cáo trạng và trong hồ sơ vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của Đỗ Mạnh S.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động iphone 6 Plus màu xám, số sim 09470999**; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ 01 điện thoại di động Nokia 105 màn hình màu, vỏ màu đỏ, bàn phím màu đen, số sim: 09420586**; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ Số tiền 300.000đồng.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Mạnh S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh S: 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ 18/4/2019.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 02 (Hai) phong bì đã niêm phong bên trong chứa chất ma túy đã giám định, bên ngoài phong bì có chữ ký giáp lai của Đỗ Mạnh S và giám định viên Phạm Đình Đạo.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động iphone 6 Plus màu xám, số sim 09470999**; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ 01 điện thoại di động Nokia 105 màn hình màu, vỏ màu đỏ, bàn phím màu đen, số sim: 09420586**; đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

+ Số tiền 300.000đồng.

(Đặc điểm, số lượng, tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 169/19 ngày 29/5/2019).

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Khoản 1 Điều 23; Khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đỗ Mạnh S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:137/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về