Bản án 137/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 137/2019/HS-ST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 157/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn K; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1970 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Đội 9, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): Không; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn L (Đã chết) và Con bà: Lò Thị Th (Đã chết); Vợ: Lò Thị S - Sinh năm: 1970; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1993; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Bùi Văn H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1976 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Đội 6, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Đình H (Đã chết) và Con bà: Phạm Thị H - sinh năm: 1931; Vợ: Nguyễn Thị Th - Sinh năm: 1978; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Anh Lò Văn Ch - sinh năm 1980; Địa chỉ: Đội 10, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 13/6/2019, Lò Văn K đi bộ từ nhà ở đội 9, xã Th, huyện Đ để đi đón cháu ngoại tại Trường mầm non xã Th thuộc đội 7, xã Th, huyện Đ. Khi K đi đến đoạn đường bê tông thuộc đội 9, xã Th thì nhặt được 01 viên Methamphetamine, K nhặt lấy mảnh nilon màu hồng gói viên Methamphetamine lại và cất vào túi quần bên phải đang mặc với mục đích để bán lại cho người khác rồi tiếp tục đi đón cháu. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi đón cháu về, K đi ra ngoài định mua thuốc lá hút thì gặp Lò Văn Ch và Bùi Văn H đang đứng ở gần ngã ba đường thuộc đội 9, xã Th nói chuyện với nhau. Khi thấy K đi đến, Hiệu đã hỏi mua Methamphetamine với K. K đồng ý và đã bán cho H viên Methamphetamine vừa nhặt được với giá 50.000 đồng. H đưa cho K 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng và nhận từ K 01 viên Methamphetamine được gói bằng nilon màu hồng rồi cất vào túi quần bên trái đang mặc và đi về nhà để sử dụng. Lúc đó, Ch đứng ở gần đó nên biết việc H hỏi mua Methamphetamine với K nhưng không nhìn thấy việc trao đổi tiền và Methamphetamine. Hồi 17 giờ cùng ngày, khi H đi về đến khu vực đội 14, xã Th, huyện Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện Đ kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 01 viên Methamphetamine khối lượng 0,1 (không phẩy một) gam tại túi quần bên trái H đang mặc.

Căn cứ lời khai của Bùi Văn H, hồi 20 giờ 00 phút ngày 13/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã tiến hành khám xét khẩn cấp người và chỗ ở của Lò Văn K đã phát hiện thu giữ tại túi quần bên phải K đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang lưu hành là số tiền do K bán Methamphetamine cho H mà có.

Tại bản kết luận giám định số: 630/GĐ-PC09 ngày 21/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Bùi Văn H gửi giám định là ma túy loại Heroine, khối lượng vật chứng thu giữ của Bùi Văn H gồm: 0,1 gam chất bột màu trắng. Heroine nằm trong danh mục chất ma túy, STT 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên.

Về vật chứng của vụ án: Ngày 16/8/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên đã chuyển vật chứng của vụ án sang cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên gồm: 01 tờ tiền Việt Nam đang lưu hành mệnh giá 50.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 153/CT-VKS-HĐB ngày 09/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn K về tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn K với mức hình phạt từ 24 đến 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn H với mức hình phạt từ 12 đến 15 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với các bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 50.000 đồng là tiền do bị cáo Lò Văn K phạm tội cho mà có;

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Thực hiện lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa K, H khai nhận Khoảng 16 giờ ngày 13/6/2019, Lò Văn K đi bộ từ nhà để đi đón cháu ngoại tại tại Trường mầm non xã Th. Khi K đi đến đoạn đường bê tông thuộc đội 9, xã Th thì nhặt được 01 viên Methamphetamine, K nhặt lấy mảnh nilon màu hồng gói viên Methamphetamine lại và cất vào túi quần bên phải đang mặc với mục đích để bán lại cho người khác rồi tiếp tục đi đón cháu. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì K gặp Ch và H đang đứng ở gần ngã ba đường thuộc đội 9, xã Th nói chuyện với nhau. Khi thấy K đi đến, H đã hỏi mua Methamphetamine. K đồng ý và đã bán cho H viên Methamphetamine vừa nhặt được với giá 50.000 đồng. Sau khi mua xong K đã cất vào túi quần bên trái đang mặc và đi về nhà để sử dụng. Do Ch đứng ở gần đó nên biết việc H hỏi mua Methamphetamine của K nhưng Ch không nhìn thấy việc trao đổi tiền và Methamphetamine. Đến hồi 17 giờ cùng ngày, khi H đi về đến khu vực đội 14, xã Th, huyện Đ thì bị phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 01 viên Methamphetamine khối lượng 0,1 gam tại túi quần bên trái H đang mặc. Đến 20 giờ 00 phút ngày 13/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành khám xét khẩn cấp người và chỗ ở của Lò Văn K thu giữ tại túi quần bên phải K đang mặc 01 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng là số tiền do K bán Methamphetamine cho Hiệu mà có.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 13/6/2019, tại khu vực đội 9, xã Th, huyện Đ, Lò Văn K đã bán 0,1 gam Methamphetamine cho Bùi Văn H, thu được 50.000 đồng. Hồi 17 giờ ngày 13/6/2019, tại khu vực đội 14, xã Th, huyện Đ, Bùi Văn H đã có hành vi cất giấu trong túi quần mặc trên người 0,1 gam Methamphetamine do mua được của K mà có với mục đích để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, hành vi nêu trên của bị cáo Lò Văn K đã đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; hành vi trên của bị cáo Bùi Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Vì vậy, bản luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lò Văn K và Bùi Văn H là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Lò Văn K về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự và truy tố bị cáo Bùi Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi nhặt được ma túy sau đó bán lại cho người khác để thu được số tiền 50.000 đồng của bị cáo Lò Văn K là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo Bùi Văn H là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Vì vậy, việc truy tố, xét xử và áp dụng mức hình phạt thỏa đáng đối với các bị cáo là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo: K và H chưa có tiền án, tiền sự. Nguyên nhân chính dẫn đến phạm tội là do các bị cáo nghiện ma túy, K vì muốn có tiền để phục vụ cho nhu cầu của bản thân, còn H vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên đã bất chấp pháp luật dấn thân vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy để thể hiện sự khoan hồng của Đảng, Pháp luật của Nhà nước ta đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Tuy nhiên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần xử các bị cáo ở mức khởi điểm và cách ly các bị cáo một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi để các bị cáo từ bỏ được ma túy sớm trở lại hòa nhập với gia đình và cộng đồng.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo, cụ thể: Đối với Lò Văn K từ 24 đến 30 tháng tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy và đối với Bùi Văn H từ 12 đến 15 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”; do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập từ nghề làm ruộng thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[4] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ gồm: 50.000 đồng thu giữ của Lò Văn K; 0,1 gam Methamphetamine thu giữ của Bùi Văn H (đã gửi giám định toàn bộ không hoàn lại). Vì vậy cần Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 50.000 đồng là tiền do bị cáo Lò Văn K phạm tội cho mà có theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với nguồn gốc viên Methamphetamine mà Lò Văn Kiên bán cho Bùi Văn H. Kiên khai nhận đã nhặt được ở ngay đường bê tông thuộc Đội 9, xã Th, huyện Đ. Do Kiên không biết là của ai nên cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên không đủ thông tin xác minh để làm rõ.

Lò Văn Ch là người nghe thấy H hỏi mua ma túy với K nhưng không nhìn thấy việc H và K trao đổi mua bán ma túy. Mặt khác, sau khi việc mua bán ma túy giữa H và K diễn ra đã bị cơ quan Công an phát hiện và bắt giữ ngay. Vì vậy cơ quan điều tra không xử lý đối với Ch.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lò Văn K, Bùi Văn H mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Lò Văn K phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt:

* Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Lò Văn K 24 (Hai mươi bốn) tháng về tội: Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (13/6/2019).

* Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo: Bùi Văn H 12 (Mười hai) tháng về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (13/6/2019).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 50.000 đồng (Năm mươi nghìn đồng) là tiền do bị cáo Lò Văn K phạm tội mà có.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/8/2019 giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Lò Văn K, Bùi Văn H mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự các bị cáo Lò Văn K, Bùi Văn H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/9/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HS-ST ngày 10/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:137/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về