Bản án 137/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 137/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 149/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2019/QĐXX-ST ngày 10 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Mộng T, sinh năm 1994; địa chỉ cư trú: khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú: ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn Đặng Thị Mộng T trình bày: Bà và ông Bùi Văn T chung sống với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn, hôn nhân do tự tìm hiểu và quen biết. Trong thời gian chung sống, ông Bùi Văn T thường hay nhậu về đánh đập vợ nên đến giữa năm 2018 bà có làm đơn xin ly hôn tại Tòa án; ông Bùi Văn T có năn nỉ nên bà đã rút lại đơn kiện. Sau đó, hai vợ chồng đi đến tỉnh Bình Dương làm công ty, ông Bùi Văn T cũng thường nhậu về đánh vợ; từ tháng 9/2018 bà và ông Bùi Văn T không còn chung sống với nhau cho đến nay. Nay tình cảm không còn bà xin ly hôn với ông Bùi Văn T.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Bùi Thị Ngọc H, sinh ngày 20/10/2012 và Bùi Thị Ngọc T, sinh ngày 02/11/2017, hiện nay con do bà Đặng Thị Mộng T nuôi dưỡng; khi ly hôn bà Đặng Thị Mộng T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn ông Bùi Văn T đã được tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về các phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về các yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mộng T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mộng T xin ly hôn đối với ông Bùi Văn T; về con chung đề nghị để bà Đặng Thị Mộng T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng 02 con; ông Bùi Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và về nợ chung: Không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bà Đặng Thị Mộng T khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp về ly hôn với ông Bùi Văn T. Ông Bùi Văn T có nơi cư trú ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang. Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Ông Bùi Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị Mộng T và ông Bùi Văn T là hợp pháp vì ông bà có đăng ký kết hôn (giấy chứng nhận kết hôn số 107 ngày 01/9/2017 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang). Trong cuộc sống chung vợ chồng ông bà không được hạnh phúc, nguyên nhân do chồng thường hay đánh đập. Trong quá trình giải quyết ông Bùi Văn T đã được tống đạt các văn bản tố tụng nhưng ông không gửi văn bản ghi ý kiến của mình về các yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mộng T và vắng mặt không lý do. Xét thấy, bà Đặng Thị Mộng T yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành; trong cuộc sống chung vợ chồng ông bà không được hạnh phúc nên đã không còn sống chung với nhau đến nay là một khoảng thời gian dài, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đặng Thị Mộng T.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà Đặng Thị Mộng T xác định vợ chồng có 02 con chung tên Bùi Thị Ngọc H, sinh ngày 20/10/2012 và Bùi Thị Ngọc T, sinh ngày 02/11/2017; khi ly hôn bà Đặng Thị Mộng T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy con chung hiện còn nhỏ và bà Đặng Thị Mộng T đang nuôi dưỡng, ông Bùi Văn T không tranh chấp việc nuôi con với bà Đặng Thị Mộng T nên tiếp tục giao con chung cho bà Đặng Thị Mộng T nuôi dưỡng, về việc cấp dưỡng nuôi con: do bà Đặng Thị Mộng T không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

[2.3] Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

[2.4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

[3] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Mộng T.

Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Đặng Thị Mộng T ly hôn với ông Bùi Văn T. Giấy chứng nhận kết hôn số 107 ngày 01/9/2017 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang cấp, không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Bà Đặng Thị Mộng T được tiếp tục nuôi con chung tên Bùi Thị Ngọc H, sinh ngày 20/10/2012 và Bùi Thị Ngọc T, sinh ngày 02/11/2017; ông Bùi Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Đặng Thị Mộng T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Bùi Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét đến.

Về án phí: Bà Đặng Thị Mộng T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm nộp án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012593 ngày 14/02/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bà Đặng Thị Mộng T đã nộp đủ.

Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt thì thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 137/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:137/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về