TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 137/2018/HS-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 138/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức C, sinh ngày: 06/01/1987; Nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: ấp A, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Đường B, phường 15, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam, Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam, con ông Nguyễn Đức D và bà Nguyễn Thị C; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2018; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 00 ngày 23/5/2018, tại tầng hầm khách sạn Quốc Phong, địa chỉ Đường A, phường P, quận Tân Phú; Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy kiểm tra hành chính bắt quả tang Nguyễn Đức C có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, thu giữ trong túi quần trước bên trái của C01 gói nylon chứa tinh thể không màu (M1). Tiến hành khám xét nơi ở của C tại Phòng 104 Đường B, phường 15, quận Tân Bình thu giữ 03 gói nylon chứa tinh thể không màu (M2).
Tại Cơ quan điều tra, C khai nhận do chiều cùng ngày có người phụ nữ tên Tâm (chưa rõ lai lịch) gọi điện thoại hỏi mua 10 số ma túy đá (01 gram), C đồng ý bán với giá 700.000 đồng và cả hai hẹn gặp tại khách sạn Quốc Phong. Sau đó, C đến đường Phó Đức Chính, Quận 1 mua ma túy của một người tên Phong (không rõ lai lịch) 500.000 đồng ma túy đá. Sau khi mua xong, C bỏ gói nylon chứa ma túy vào túi quần trước bên trái rồi chạy xe đến khách sạn Quốc Phong thì bị Công an kiểm tra đưa về làm việc. Ngoài ra, C có bán ma túy cho 02 đối tượng nghiện khác nhưng không rõ nhân thân lai lịch, thu lợi bất chính 300.000 đồng.
Tại Kết luận giám định số 912/KLGĐ-H ngày 29/5/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
+ Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu M1 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1900 g (một phẩy một chín không không gam) loại Methamphetamine.
+ Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu M2 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 14, 7278 g (mười bốn phẩy bảy hai bảy tám gam), loại Methamphetamine.
Vật chứng thu giữ: Đang nhập kho vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 198/PNK ngày 20/6/2018, gồm:
02 (hai) gói niêm phong số 912 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra;
01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số máy 990002763463625;
01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số máy 356415/02/135678/5;
01 (một) xe gắn máy hai bánh hiệu Honda (Click) màu đen biển số 67L1 – 890.29, số máy JF18E-0301172, số khung RLHJF1803AY844923;
01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá;
01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, số máy 7117239412;
01 (một) cân điện tử màu đen.
Tại Cáo trạng số 142/CT-VKSQTP ngày 05/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Nguyễn Đức C tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;
Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;
Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với bị cáo Nguyễn Đức C.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Do muốn bán ma túy để kiếm tiền lời nên bị cáo Nguyễn Đức C thừa nhận đã 02 lần bán ma túy cho hai con nghiện (không rõ lai lịch) thu lợi được 300.000 đồng; lần thứ ba tại khách sạn Quốc Phong Đường A, phường P, quận Tân Phú vào khoảng 16 giờ 00 ngày 23/5/2018, C chuẩn bị bán ma túy cho Tâm (không rõ lai lịch) thì bị bắt quả tang, thu giữ 15,9178 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tang vật chứng thu giữ, phù hợp với các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Đức C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung“Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo C khai nhận bán ma túy cho hai con nghiện nhưng không xác định được nhân thân lai lịch nên chưa đủ cơ sở để xét xử bị cáo mua bán nhiều lần. Do đó, cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phát tán cái chết trắng trong cộng đồng, làm phát sinh các tệ nạn và tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, bản thân bị cáo thừa biết ma túy là chất gây nghiện mang tính độc hại cao, bị nhà nước cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển dưới bất kỳ hình thức nào. Bản thân bị cáo nghiện ma tuý và tham lợi bất chính nên bất chấp mọi hậu quả lao vào con đường phạm tội, thực hiện hành vi mua bán ma tuý nhằm thỏa mãn nhu cầu cho bản thân. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Tuy nhiên, khi lượng hình cũng xem xét bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự để áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu. Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[3] Đây là dạng hình tội, ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Xét việc bị cáo thu lợi từ hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.
[4] Bị cáo khai nhận thu lợi bất chính 300.000 đồng, vì vậy cần buộc bị cáo nộp lại để tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 02 (hai) gói niêm phong số 912 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số máy 990002763463625 là công cụ, phương tiện phạm tội (dùng để liên lạc mua bán ma túy) thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số máy 356415/02/135678/5 và 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, số máy 7117239412 thu giữ của bị cáo Chánh, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và 01 (một) cân điện tử màu đen là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy.
Đối với 01 (một) xe gắn máy hai bánh hiệu Honda (Click) màu đen biển số 67L1 – 890.29, số máy JF18E-0301172, số khung RLHJF1803AY844923; C khai nhận cầm cố của Linh (không rõ lai lịch) với giá 3.500.000 đồng. Qua xác minh, biển số 67L1 – 890.29 do Phạm Thị H; địa chỉ Long Hòa, Long Giang, Chợ Mới, An Giang đứng tên chủ sở hữu là loại xe Air Blade có số khung, số máy không trùng của xe thu giữ. Số máy JF18E-0301172, số khung RLHJF1803AY844923 qua xác minh do chịLê Thị Minh T; địa chỉ Đường B, ấp 1, xã C, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu có biển số 59Y2 – 143.00. Tháng 3/2018, chị T có cho bạn tên Tài (không rõ lai lịch) mượn tại phường 13, quận Bình Thạnh sau đó Tài không trả lại; sự việc này chị T đã trình báo Công an quận Bình Thạnh. Do đây là tài sản hợp pháp của chị T , Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Riêng đối với biển số giả 67L1 – 890.29 là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C với mức án từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù là có cơ sở chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2018.
Phạt bổ sung bị cáo C số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 198/PNK ngày 20/6/2018 của Công an quận Tân Phú.
Tịch thu, tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong số 912 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 (một) cân điện tử màu đen và biển số giả 67L1 – 890.29.
Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số máy 990002763463625.
Trả lại cho bị cáo C 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số máy 356415/02/135678/5 và 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, số máy 7117239412 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Buộc bị cáo C phải nộp lại số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 137/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 137/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về