Bản án 136/2021/HNGĐ-ST ngày 28/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 136/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔICON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 146/2021/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/7/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 113/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10/8/2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Tuyết M, sinh năm 1994. Địa chỉ: KDC số 5, phường Ph, thành phố L, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Duy N, sinh năm 1989.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: KDC số 5, phường Ph, thành phố L, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Nhật Bản.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của Anh N: Ông Nguyễn Văn Qu, sinh năm 1958.

Địa chỉ: Khu C, phường Ph, thành phố L, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, các bản khai - Nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết M trình bày: Chị và anh Nguyễn Duy N được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Ph, thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh Hải Dương vào ngày 26/5/2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống bất đồng, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng và không đem lại hạnh phúc cho nhau. Anh N không ở nhà để tháo gỡ mâu thuẫn mà lại quyết định sang Nhật Bản làm ăn. Vợ chồng xa cách, không có sự chia sẻ, gắn bó lại có mâu thuẫn từ trước nên không thể tháo gỡ được. Gia đình hai bên đã tìm cách can thiệp, hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Duy N.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thảo Ch, sinh ngày 09/02/2016, hiện con đang ở với ông bà nội. Do công việc của chị không ổn định, chỗ ở cũng chưa có nên chị đề nghị giao con cho Anh N nuôi dưỡng và nhất trí giao con cho ông Nguyễn Văn Qu nuôi dưỡng trong thời gian Anh N không có mặt tại Việt Nam, chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Không có, nên chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Nguyễn Văn Qu (bố đẻ Anh N) trình bày: Ông không biết địa chỉ cụ thể của Anh N ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên Anh N vẫn thường xuyên liên lạc điện thoại về gia đình. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho Anh N biết. Thông qua gia đình, Anh N có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh nhất trí ly hôn và đề nghị được nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thảo Ch, anh tự nguyện không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng cho con. Trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho ông Qu nuôi dưỡng con chung và anh có trách nhiệm gửi tiền về để ông Qu nuôi con cho anh. Về tài sản chung anh xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông Qu nhất trí nhận sự ủy quyền của Anh N về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Chi trong thời gian Anh N không có mặt tại Việt Nam, ông không yêu cầu chị M, Anh N phải có trách nhiệm cấp dưỡng, ông nhất trí việc Anh N gửi tiền về để ông nuôi dưỡng cháu Thảo Ch.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị M, Anh N đăng ký kết hôn và cư trú thể hiện: Trong thời gian chung sống, Anh N đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, chị M không sống tại gia đình nhà chồng mà chuyển đi nơi khác, vợ chồng mỗi người ở một nơi, không ai quan tâm đến ai. Nay, chị M có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Tuyết M được ly hôn anh Nguyễn Duy N. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thảo Ch cho Anh N nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (tròn 18 tuổi), chị M không phải cấp dưỡng nuôi con. Tạm giao con chung Nguyễn Thảo Ch cho ông Nguyễn Văn Qu nuôi dưỡng trong thời gian Anh N ở nước ngoài. Chị M phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị Tuyết M hiện đang sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Duy N có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại khu dân cư số 5, phường Ph, thành phố L, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Nhật Bản. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị M không cung cấp được địa chỉ cụ thể của Anh N ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần đề nghị gia đình Anh N cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình Anh N và gia đình đã thông báo cho Anh N biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị M và anh. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị M vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh N, ông Qu vắng mặt và có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Tuyết M và anh Nguyễn Duy N kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Ph, thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh Hải Dương vào ngày 26/5/2015, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì bắt sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, quan điểm sống bất đồng, vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Năm 2017, sau khi Anh N đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, vợ chồng sống xa cách, tình cảm không được vun đắp, chia sẻ và đã sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Chị M xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh N. Anh N ở nước ngoài nhưng thông qua gia đình cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên có quan điểm đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và Anh N đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị M được ly hôn Anh N là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Chị Trần Thị Tuyết M và anh Nguyễn Duy N có một con chung là Nguyễn Thảo Ch, sinh ngày 09/02/2016, hiện con đang ở với ông bà nội. Thông qua gia đình Anh N có quan điểm được nuôi dưỡng con chung cho đến khi thành niên (tròn 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng cho con, đồng thời ủy quyền cho ông Qu nuôi dưỡng con chung trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam. Ông Qu nhất trí nhận sự ủy quyền chăm sóc con của Anh N. Xét thấy, chị M nhất trí giao con cho Anh N nuôi dưỡng và nhất trí giao con cho ông Qu nuôi dưỡng trong thời gian Anh N không có mặt tại Việt Nam. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Nguyễn Thảo Ch cho Anh N nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận sự tự nguyện của Anh N không yêu cầu chị M cấp dưỡng tiền nuôi con. Trong thời gian Anh N không có mặt tại Việt Nam, tạm giao con chung Nguyễn Thảo Ch cho ông Nguyễn Văn Qu chăm sóc nuôi dưỡng.

[2.3] Về tài sản, nợ chung: Chị M và Anh N cùng xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Trần Thị Tuyết M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Tuyết M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị Tuyết M ly hôn anh Nguyễn Duy N.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao cho anh Nguyễn Duy N chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Thảo Ch, sinh ngày 09/02/2016 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của Anh N tạm thời không yêu cầu chị M phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Tạm giao con chung Nguyễn Thảo Ch cho ông Nguyễn Văn Qu chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian Anh N không có mặt tại Việt Nam.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Tuyết M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006387 ngày 01/7/2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Tuyết M và ông Nguyễn Văn Qu được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Duy N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2021/HNGĐ-ST ngày 28/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:136/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về