Bản án 136/2021/HNGĐ-ST ngày 23/09/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 136/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 97/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 63/2021/QĐST- HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc K, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh; vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trương Quang H, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ dân phố Y, thị trấn H, huyện Q, tỉnh N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/6/2021, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Ngọc K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trương Quang H tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã H (nay là thị trấn H), huyện Q, tỉnh N cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 40 ngày 12/7/2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau. Mỗi lần cãi nhau anh H thường có những lời lẽ xúc phạm và đánh chị nhiều lần. Chị đã nhiều lần cho anh H cơ hội để sửa sai nhưng anh H vẫn không thay đổi. Từ khi nộp đơn ly hôn cho đến nay chị và anh H sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Nay chị thấy không thể tiếp tục chung sống với anh H được nữa nên chị xin được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung tên là Trương Nguyễn Nhật N, sinh ngày 31/10/2017. Khi ly hôn chị xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại Biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn - anh Trương Quang H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với lời trình bày của chị K về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn vợ chồng. Anh biết hành động của anh là sai và mong muốn chị K bỏ qua trở về đoàn tụ, làm ăn nuôi con trưởng thành, xây dựng hạnh phúc gia đình. Bên cạnh đó, anh cũng thừa nhận do áp lực từ việc chị K nộp đơn xin ly hôn nên anh không hợp tác với Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.

Về con chung: Anh và chị K có 01 con chung tên là Trương Nguyễn Nhật N, sinh ngày 31/10/2017. Trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh thống nhất giao cháu N cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con chung theo yêu cầu của chị K.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình; bị đơn vắng mặt tại các phiên tòa là không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con của chị Nguyễn Thị Ngọc K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Ngọc K có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn - anh Trương Quang H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị Ngọc K có quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh Trương Quang H. Anh H hiện đang cư trú tại tổ dân phố Y, thị trấn H, huyện Q, tỉnh N. Nay, chị K khởi kiện xin ly hôn với anh H và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị K và anh H tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Q, tỉnh N cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 40 ngày 12 tháng 7 năm 2017. Quá trình chung sống, giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị K là do vợ chồng không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau, anh H thường có những lời lẽ xúc phạm và đánh chị nhiều lần. Từ khi nộp đơn ly hôn cho đến nay chị và anh H sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Quá trình Tòa án hòa giải, anh H thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng như lời chị K trình bày là đúng, anh biết hành vi của anh là sai và mong chị K bỏ qua, để trở về đoàn tụ, tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, tại các phiên tòa, anh H đều vắng mặt trong khi chị K có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn cương quyết xin ly hôn. Chị K đã cung cấp cho Tòa án một Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 228/2020/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam thể hiện chị đã từng nộp đơn xin ly hôn nhưng vụ án được đình chỉ giải quyết do chị rút đơn khởi kiện. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa chị K và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị K và anh H có 01 con chung tên là Trương Nguyễn Nhật N, sinh ngày 31/10/2017. Khi ly hôn, chị K có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình hòa giải, anh H thống nhất giao cháu N cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng trong trường hợp Tòa án giải quyết cho ly hôn. Hiện nay, cháu N còn nhỏ nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ, để tốt hơn cho sự phát triển toàn diện của cháu; hơn nữa, tại các phiên tòa anh H đều vắng mặt và không gửi ý kiến cho Tòa án về việc nuôi con chung. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận giao cháu Trương Nguyễn Nhật N cho chị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con, chị K không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét; anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7]. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Thị Ngọc K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc K về việc "Tranh chấp về ly hôn và nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc K và anh Trương Quang H.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Nguyễn Nhật N, sinh ngày 31/10/2017 cho chị Nguyễn Thị Ngọc K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Trương Quang H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, chị Nguyễn Thị Ngọc K phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị K đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001838 ngày 11/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2021/HNGĐ-ST ngày 23/09/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:136/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về