Bản án 136/2020/HSPT ngày 18/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 136/2020/HSPT NGÀY 18/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 18/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 177/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Đức M, bị cáo Nguyễn Văn Lvà bị cáo Đồng Văn B, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2020/TLPT-HS ngày 16/11/2020 và quyết định hoãn phiên số 124/2020/QĐ-PT ngày 14/12/2020.

* Bị cáo kháng cáo:

1. Nguyễn Đức M, sinh năm 1981; nơi sinh, nơi đăng ký thường trú, nơi sinh sống: Thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hai Dương ; nghê nghiêp : Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Kh và ba Lê Thị Đ ; có vợ là Nguyễn Thị H và hai con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiên sư: Không:

Bị tạm giữ tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 29/4/2020 đến ngày 02/5/2020; hiện tại ngoại, có mặt.

2. Nguyễn Văn L, sinh năm 1995; nơi sinh, nơi đăng ký thường trú, nơi sinh sống: Thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hai Dương ; nghê nghiê p: Công nhân :

trình độ văn hóa : 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ch và ba Phạm Thị Đ; có vợ là Vũ Thị Ng và một con sinh năm 2019; tiền án, tiên sư: Không:

Bị tạm giữ tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 29/4/2020 đến ngày 02/5/2020; hiện tại ngoại, có mặt.

3. Đồng Văn B, sinh năm 1972; nơi sinh, nơi đăng ký thường trú, nơi sinh sống: Thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hai Dương ; nghê nghiêp : Lao động tự do ; trình độ văn hóa : 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn Q và Nguyễn Thị M; tiền án, tiên sư: Không:

Bị tạm giữ tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 29/4/2020 đến ngày 02/5/2020; hiện tại ngoại, có mặt.

* Ngoài ra còn có 02 bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị: Nguyễn Văn C, Đồng Văn S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 29/4/2020, Nguyễn Đức M, Đồng Văn S, Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn L lần lượt đến chơi, uống nước với Đồng Văn B tại nhà chị Đồng Thị M1, sinh năm 1964 (là chị gái của B) ở thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương (chị M1vào miền Nam sinh sống, đã giao ngôi nhà này cho B trông coi, quản lý từ khoảng cuối năm 2019). Đến khoảng 19 giờ 50 phút cùng ngày, M, S, C và L thống nhất rủ nhau đánh bạc bằng hình thức đánh liêng được thua bằng tiền. B đồng ý cho M, S, C và L đánh bạc tại đây và nói “tao không chơi đâu, anh em chúng mày cứ chơi đi”. Sau đó, M lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài (do B mua từ trước đó) để ở góc nền phòng khách, rồi cùng S, C và L ngồi xuống nền phòng khách đánh bạc, còn B ngồi xem. Khi đánh bạc, L sử dụng 4.000.000 đồng, C sử dụng 3.500.000 đồng, M sử dụng 3.000.000 đồng, S sử dụng 2.500.000 đồng. Hình thức đánh liêng là sử dụng bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài chia cho mỗi người chơi 3 quân, quy định mỗi người phải đặt ít nhất 20.000 đồng tiền “gà” ra chiếu bạc, sau đó tham gia “tố” mức cao nhất là 200.000 đồng, những người tham gia “tố” bỏ ra số tiền tương ứng để “tố” tiếp, nếu ai không theo thì thua. Những người còn lại so sánh thắng thua với nhau theo thứ tự: sáp (3 quân bài có cùng giá trị), sau đó đến liêng (3 quân bài có giá trị liên tiếp) và so điểm. Người thắng sẽ được toàn bộ số tiền “gà” và tiền “tố” của những người tham gia. Đến 22 giờ 15 phút cùng ngày, trong lúc M, L, C, S đang đánh bạc thì bị tổ công tác của Công an huyện K kết hợp với Công an xã L phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài và số tiền các đối tượng sử dụng đánh bạc là 13.000.000 đồng Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương đã căn cứ vào khoản 1, 3 Điều 321; Điều 17: Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Xử phạt Nguyễn Đức M 14 tháng tù, xử phạt Nguyễn Văn L 14 tháng tù, xử phạt Đồng Văn B 12 tháng tù; Ngoài ra bản án còn quyết định về hình phạt, hình phạt bổ sung đối với các bị cáo khác, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 08/9/2020 bị cáo Nguyễn Văn L và bị cáo Nguyễn Đức M có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo Ngày 9/9/2020 bị cáo Đồng Văn B có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Nguyễn Đức M; Nguyễn Văn Lcó đơn đề nghị xử vắng mặt trình bày giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; bị cáo Đồng Văn B đã được tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh tham gia phiên tòa sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, xác định cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Đức M, bị cáo Nguyễn Văn L và bị cáo Đồng Văn B về tội “Đánh bạc” là có căn cứ. Cấp sơ thẩm đã xác định đúng vai trò, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Đức M 14 tháng tù, xử phạt Nguyễn Văn L 14 tháng tù, xử phạt Đồng Văn B 12 tháng tù là phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo M, L đã giao nộp biên lai nộp xong án phí và tiền phạt nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo giảm một phần hình phạt cho các bị cáo M, L. Bị cáo B không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo B. Các bị cáo M, L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo B phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Đức M, Nguyễn Văn Lvà bị cáo Đồng Văn B kháng cáo trong thời hạn luật định là kháng cáo hợp lệ. Bị cáo B đã nhận được quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đến phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Các bị cáo L, M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bị cáo.

[2] Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, thu giữ vật chứng dùng vào việc phạm tội, nên có cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ 19 giờ 50 phút đến 22 giờ 15 phút ngày 29/4/2020, tại thôn L, xã L, huyện K, tỉnh Hải Dương. bị cáo Đồng Văn B có hành vi dùng nhà ở của chị Đồng Thị M1 (B được chị M1 là chị gái giao trông coi, quản lý) cho Nguyễn Đức M, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn C và Đồng Văn S đánh bạc trái phép B hình thức đánh liêng được thua bằng tiền, tổng số tiền sử dụng đánh bạc là 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng). Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội đánh bạc là có có căn cứ đúng người, đúng tội.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của các bị cáo thì thấy:

- Đối với bị cáo Đồng Văn B: Mặc dù không tham gia đánh bạc nhưng là người tạo điều kiện về địa điểm cho các bị cáo khác đánh bạc, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm đồng phạm về tội đánh bạc. Cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, vai trò của bị cáo xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án về hình phạt đối với bị cáo.

- Đối với các bị cáo Nguyễn Đức M và Nguyễn Văn L, tuy tham gia với vai trò đồng phạm nhưng bị cáo M là người lấy bộ bài(chuẩn bị công cụ); bị cáo L có số tiền nhiều nhất (4.000.000đ) để đánh bạc. Cấp sơ thẩm không cho các bị cáo hưởng án treo là có căn cứ, kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo không được chấp nhận.

Xem xét đề nghị giảm hình phạt của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo M có bố đẻ là người có công được tặng thưởng huân chương kháng chiến; tổng số tiền đánh bạc không lớn (13.000.000đ); các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo M, L mỗi bị cáo 14 tháng tù là nghiêm khắc.

Tại cấp phúc thẩm các bị cáo L, M đã giao nộp biên lai án phí và tiền phạt theo bản án sơ thẩm thể hiện ý thức chấp hành pháp luật, các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Chấp nhận kháng cáo giảm một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tại phiên tòa.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[5].Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức M, Nguyễn Văn L được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Đồng Văn B không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. đối với bị cáo Đồng Văn B.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đồng Văn B. Giữ nguyên án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Đồng Văn B.

Xử phạt: Bị cáo Đồng Văn B 12(Mười hai)tháng tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 03 ngày tạm giữ; bị cáo còn phải chấp hành 11 tháng 27 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật hình sự. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đức M và Nguyễn Văn L. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 41/2020/HSST ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương về hình phạt đối với 02 bị cáo Nguyễn Đức M và Nguyễn Văn L.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức M; Nguyễn Văn L - Xử phạt Bị cáo Nguyễn Đức M 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 03 ngày tạm giữ; bị cáo còn phải chấp hành 08 tháng 27 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Văn L 09(chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, được trừ 03 ngày tạm giữ; bị cáo còn phải chấp hành 08 tháng 27 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí : Ghi nhận các bị cáo Nguyễn Văn L, Nguyễn Đức M đã nộp xong án phí hình sự sơ thẩm và tiền phạt bổ sung mỗi bị cáo đã nộp số tiền 12.200.000đ(Mười hai triệu hai trăm nghìn đồng) tại biên lai số AA/2011/08162 ngày 08/12/2020 và biên lai thu số AA/2011/0816 ngày 08/12/2020 tại Cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Hải Dương.

Bị cáo Đồng Văn B phải chịu số tiền 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm; Các bị cáo Nguyễn Đức M, Nguyễn Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 18/12/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2020/HSPT ngày 18/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:136/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:18/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về