Bản án 136/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 136/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vi Thị K, sinh năm: 1993; địa chỉ: Bản T, xã TS, huyện T, tỉnh NA. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư: Lê Đăng Tế - Cộng tác viên Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị đơn: Anh Học Văn N, sinh năm: 1984; địa chỉ: Bản T, xã TS, huyện TC, tỉnh NA. Vắng mặt. ( Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn chị Vi Thị K trình bày như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Học Văn N kết hôn với nhau vào ngày 08/9/2011 do hai bên tự nguyện,có đăng ký kết hôn tại UBND xã TS, huyện TC, tỉnh NA. Sau kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp,vợ chồng không tin tưởng tôn trọng nhau.Tình cảm vợ chồng là không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Học Văn N.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012 hiện đang ở với chị tại bản T, xã TS, huyện TC, tỉnh NA. Chị Vi Thị K có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh Học Văn N cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản và nợ: Chị Vi Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến bị đơn: Tại đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt anh Học Văn Ngọc có ý kiến:

Về hôn nhân: Tình cảm vợ chồng là không còn, anh Học Văn N đồng ý ly hôn với chị Vi Thị K.

Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012. Anh Học Văn N đồng ý giao con chung cho chị Vi Thị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về chia tài sản và nợ: Anh Học Văn N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Vi Thị K:

Luật sư Lê Đăng Tế có ý kiến: Về quan hệ hôn nhân giữa chị Vi Thị K và anh Học Văn N chỉ tồn tại về mặt hình thức,thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân từ lâu và không quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51,56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Vi Thị K được ly hôn với anh Học Văn N.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012 hiện đang ở với chị Vi Thị K tại bản T, xã TS, huyện TC, tỉnh NA. Chị Vi Thị K có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh Học Văn N cấp dưỡng nuôi con. Anh Học Văn N cũng đồng ý giao con cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng. Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của các đươcng sự, giao con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012 cho chị Vi Thị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Vi Thị K không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Học Văn N.

Về chia tài sản và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó luật sư không có ý kiến gì.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

 Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chi Vi Thị K được ly hôn anh Học Văn N.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012 cho chị Vi Thị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Học Văn N.

Về chia tài sản và nợ: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

Về án phí: Chị Vi Thị K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án không tiến hành hòa giải được vì bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt được quy định tại khoản 1 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự.Tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Vi Thị K và anh Học Văn N là hợp pháp, được xác lập trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TS, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 08/9/2011. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp,vợ chồng không tin tưởng tôn trọng nhau. Nay chị Vi Thị K đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Học Văn N thì anh Học Văn N cũng đồng ý ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy về quan hệ hôn nhân giữa chị Vi Thị K và anh Học Văn N chỉ tồn tại về mặt hình thức, thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vi Thị K, xử cho chị được ly hôn với anh Học Văn N là đúng với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012. Chị Vi Thị K có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh Học Văn N cấp dưỡng nuôi con. Ý kiến anh Học Văn N cũng đồng ý giao con cho chị Vi Thị K trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyện vọng của cháu Học Thị Cẩm U là muốn được ở với mẹ Vi Thị K.

Hội đồng xét thấy hiện tại con đang ở với chị Vi Thị K, chị có đủ điều kiện về mọi mặt để trực tiếp chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con do đó giao con chung cho chị Vi Thị K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con; phù hợp với nguyện vọng của con và đúng với quy định tại các Điều 81; 82;83 Luật hôn nhân và gia đình. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Học Văn N.

[4]Về chia tài sản và nợ: Chị Vi Thị K và anh Học Văn N không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Vi Thị K phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa; những người tham gia tố tụng và việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83  Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Về hôn nhân: Cho chị Vi Thị K được ly hôn anh Học Văn N.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Học Thị Cẩm U, sinh ngày 23/9/2012 cho chị Vi Thị K trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Học Văn N.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người yêu cầu thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Chị Vi Thị K phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn)đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng(Ba trăm ngàn) theo biên lai số 0004439ngày 16/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:136/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về