Bản án 136/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 136/2019/HSST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 133/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

Tòng Văn H, sinh năm 1986 tại huyện M, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHKTT: Bản T, xã P, huyện M, tỉnh Sơn La. Chỗ ở: Tiểu khu X, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 06/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Tòng Văn Đ và bà Cà Thị H; bị cáo có vợ là Lường Thị B, có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2019. Có mặt. Lò Văn T, sinh năm 1992 tại huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 07/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn N và bà Lò Thị B; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/4/2019. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tòng Văn H và Lò Văn T làm thợ xây thuê tại Tiểu khu X, thị trấn M, huyện M. Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 17/4/2019, H rủ T cùng đi mua ma túy sử dụng, T đồng ý. T điều khiển xe máy có BKS: 26…- 124… chở H đến Tiểu khu Y, thị trấn N, khi đang đi trên đường dân sinh thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, H đưa cho T 300.000đ, T nhận tiền, hỏi và mua được của người đàn ông dân tộc Mông đó 01 gói Heroine với giá 300.000đ, T cầm ma túy ở lòng bàn tay trái và điều khiển xe chở H đi về. Khi đang đi trên đường dân sinh của Tiểu khu Y, thị trấn N thì gặp tổ công tác làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện và thu giữ của T 01 gói nilon màu trắng nghi là heroine. H và T khai nhận là Heroine H và T mua về để sử dụng chung. Căn cứ vào hành vi vi phạm và vật chứng thu giữ, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải H, T về trụ sở Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu điều tra, làm rõ. Tạm giữ của T 01 xe máy có BKS: 26G1- 124.44.

Ngày 17/4/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng số ma túy nghi là heroine thu giữ của Tòng Văn H, Lò Văn T là 0,23gam. Lấy 0,11 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu H, trưng cầu giám định xác định có phải ma túy không, loại chất ma túy gì, khối lượng của mẫu gửi giám định là bao nhiêu?

Tại kết luận giám định số 789 ngày 20/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu H là chất ma túy, loại heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,11 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,23 gam, loại chất heroine”.

Bản cáo trạng số 133/CT-VKSMC ngày 04/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Tòng Văn H, Lò Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Tòng Văn H, Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng các căn cứ pháp luật xử phạt các bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tòng Văn H từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ: Tòng Văn H, Lò Văn T, bắt ngày: 17/4/2019: Bên trong đựng 0,12 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS, màu đen trắng, BKS: 26.... – 124....., thu giữ của Lò Văn T.

4. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Tòng Văn H, Lò Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 40 phút ngày 17/4/2019; biên bản thu giữ niêm phong vật chứng; kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 17/4/2019 bị cáo Tòng Văn H, Lò Văn T có hành vi tàng trữ 0,23 gam heroine mục đích để sử dụng. Hành vi trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng các bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma tuý, các bị cáo nhận thức rõ về tác hại của ma túy nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra, cần cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Phân hóa vai trò phạm tội của các bị cáo thấy rằng, bị cáo Tòng Văn H là người khởi xướng, góp tiền đi mua ma túy do đó giữ vai trò chính trong vụ án. Bị cáo Lò Văn T là người dùng xe máy chở H đi mua ma túy và là người trực tiếp mua ma túy, do đó là đồng phạm với vai trò là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ: Tòng Văn H, Lò Văn T, bắt ngày: 17/4/2019: Bên trong đựng 0,12 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, xét không có giá trị sử dụng. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc xe máy BKS: 26….- 124….. là tài sản hợp pháp của Lò Văn T, bị cáo đã sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Tòng Văn H và Lò Văn T vào ngày 17/4/2019 (như bị cáo khai). Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, do đó Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam sau phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Tòng Văn H, Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tòng Văn H 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng thu giữ vụ: Tòng Văn H, Lò Văn T, bắt ngày: 17/4/2019: Bên trong đựng 0,12 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RS, màu đen trắng, BKS: 26... – 124....., sk: 078...., sm: 078..... 01 gương chiếu hậu bé, xe đã qua sử dụng cũ thu giữ của Lò Văn T.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo Tòng Văn H, Lò Văn T, mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HSST ngày 17/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về