TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH TH
BẢN ÁN 136/2019/HSST NGÀY 16/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 4 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 114/2019/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2019/QĐXXST-HS ngày 01/4/2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 16/12/1974 tại TH; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKNKTT: Xóm V, xã B, huyện PB, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1945 và con bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1952; Bị cáo có vợ Tạ Thị L (đã chết); Có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2006;Tiền án, tiền sự: Không Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 06/12/2018 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).
Người chứng kiến: Ông Phạm Đình T1, sinh năm 1953 – Địa chỉ: Tổ 1, phường TT, thành phố TH. (Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hôi 8 giờ 15 phút ngày 06/12/2018, tổ công tác cua Công an phường TT, thành phố TH làm nhiệm vụ tại khu vực tô X, phường TT, thành phố TH phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, BKS 20G1-328.96 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã tiến hành kiểm tra. Người đàn ông tự khai tên là Nguyễn Văn T. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện, thu giữ tại lòng bàn tay trái của T 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng (T khai nhận đó là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, màu đen -đỏ, BKS20G1 -328.96.
Cùng ngày tiến hành cân số chất bột màu trắng thu giữ được của Nguyễn Văn T có khối lượng 0,187 gam lấy mẫu gửi giám định ký hiệu T.
Kết luận giám định số 102/KL-PC09 ngày 13/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận: Chất bôt màu trắng trong mẫu T thu giữ của Nguyễn Văn T là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,187 gam.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 7 giơ 20 phút ngày 06/12/2018, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, BKS 20G1-328.96 đi từ Bệnh viện A về nhà. Khi đi đến khu vực gần trung tâm uống Methadone thuộc phường TT, thành phố TH, T dừng lại tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây T gặp và mua của người đàn ông tên Đ (không rõ lai lịch, địa chỉ) 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Sau đó, T cầm gói Heroine trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe đi xuống khu vực gần nghĩa trang phường TT tìm nơi sử dụng ma túy nhưng vừa dừng xe thì bị tổ công tác Công an phường TT phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên. Ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, màu đen-đỏ, BKS 20G1- 32896.
Tại bản cáo trạng số 117/CT-VKSTPTN ngày 27/02/2019,Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân t hân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 đến 24 tháng tù giam.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS:
+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu T
+ Tịch thu sung công quỹ 01 xe mô tô của bị cáo T.
- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Trong phần tranh luận bị cáo T không tranh luận về mức hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe mô tô cho gia đình bị cáo vì đó là tài sản chung của vợ chồng.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo T nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất để trở về với gia đình nuôi day hai con còn nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:
Hồi 8 giờ 15 phút ngày 06/12/2018, tại khu vực tô X, phường TT, thành phố TH, Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,187 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường TT, thành phố TH phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015
Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
a, b
c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải xét xử bị cáo với mức án phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bố của bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến, bị cáo thuộc diện gia đình khó khăn vợ chết, một mình nuôi hai còn còn nhỏ, một con của bị cáo bị nhiễm HIV, Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 để thấy được sự khoan hồng của pháp luật, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta, động viên bị cáo tích cực cải tạo tu dưỡng tốt sớm trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS.
Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Vật chứng của vụ án:
- Cần tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu T ( bên trong chứa ma túy).
- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 20G1-328.96 dung tích 109, loại xe hai bánh từ 50 – 173cm3, màu sơn đỏ -đen, số máy JA32E1180994, số khung RLHJA3211EY095606, xe đã cũ đăng ký mang tên Nguyễn Văn T, bị cáo T sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo xác định chiếc xe trên là tài sản chung của vợ chồng bị cáo. Mục đích bị cáo sử dụng xe để chăm sóc vợ đang bị bệnh hiểm nghèo nằm ở Bệnh viện A TH. Khi bị cáo lấy xe đi mua ma túy vợ bị cáo không biết, Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho gia đình bị cáo sử dụng.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ theo Nguyễn Văn T khai mua của một người đàn ông tên Đ (không rõ lai lịch, địa chỉ) tại khu vực Trung tâm uống thuốc Methadone thuộc phường TT, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điều 326 bộ luật tố tụng hình sự
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 18 (Mười tám ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/12/2018.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
2.1.Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu T(bên trong chứa ma túy).
2.2. Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX BKS 20G1 - 328.96 dung tích 109, loại xe hai bánh từ 50 – 173cm3, màu sơn đỏ -đen, số máy JA32E1180994, số khung RLHJA3211EY095606, xe đã cũ.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 183 ngày 28/02/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 136/2019/HSST ngày 16/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 136/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về