Bản án 136/2019/HS-PT ngày 17/10/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 136/2019/HS-PT NGÀY 17/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 99/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Bùi thị H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2019/HS-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Bị cáo kháng cáo:

1. Bùi thị H, Sinh ngày: 20/7/1974 tại Thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Trú tại: Tổ dân phố 11, phường B, thành phố H, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 08/12; Con ông Bùi Xuân Đ và bà Đoàn Thị M; Chồng: Nguyễn Duy T (đã chết); Con: Có 02 con; lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1997; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2019 đến ngày 01/02/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh, có mặt tại phiên tòa.

Các Bị cáo không kháng cáo: Lê Thị N, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị L, Cao Thị H, Trần Hậu T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/01/2019 Lê Thị Nga, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị L, Cao Thị H và Trần Hậu T đánh bạc với Bùi thị H dưới hình thức ghi “Lô đề” qua tin nhắn điện thoại với tổng số tiền đánh bạc là 141.368.800 đồng. Trong đó, Lê Thị N đánh bạc số tiền 76.029.300 đồng. Nguyễn Thị T đánh bạc số tiền 24.103.000 đồng. Nguyễn Thị L đánh bạc số tiền 21.896.500 đồng. Cao Thị H đánh bạc số tiền 10.310.000 đồng. Trần Hậu T đánh bạc với số tiền 9.030.000 đồng. Dựa theo kết quả mở thưởng xổ số Miền Bắc để phân định thắng thua tỷ lệ tháng thấp nhất gấp 10 lần, cao nhất gấp 350 lần số tiền đánh.

Với hành vi phạm tội nêu trên, tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 38/2019/HS-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Bùi thị H , Lê Thị N, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị L, Cao Thị H, Trần Hậu T phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 17 Điều; 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bùi thị H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/01/2019 đến ngày 01/02/2019.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Lê Thị N 13 (Mười ba) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 26 (Hai mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Thị T 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

- Nguyễn Thị L 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Cao Thị H 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s, x khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Trần Hậu T 05 (Năm) tháng 16 (Mười sáu) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/01/2019.

Căn cứ Điều 299, khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Trần Hậu T

Căn cứ khoản 3 Điều 321; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự: Xử phạt bổ sung phạt tiền Bùi thị H 20.000.000 đồng, Lê Thị N 20.000.000 đồng, Nguyễn Thị T 15.000.000 đồng, Nguyễn Thị L 15.000.000 đồng, Cao Thị H 10.000.000 đồng, Trần Hậu T 10.000.000 đồng.

Giao Lê Thị N, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị L cho UBND phường B, thành phố H, tỉnh H; Cao Thị Hương cho UBND phường Đ, thành phố H, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong hạn luật định, ngày 10/7/2019 bị cáo Bùi thị H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Bị cáo không yêu cầu làm rõ thêm tình tiết gì của vụ án, đồng ý với tội danh mà HĐXX sơ thẩm đã tuyên.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Bản án hình sụ sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 28-6-2019 của TAND Thành Phố Hà Tĩnh xét xử bị cáo Bùi thị H phạm tội “Đánh bạc” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 321 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, hành vi phạm tội và nội dung kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2.1] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tệ nạn cờ bạc, mua bán số đề ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp, đây là một tệ nạn xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, phải chịu chế tài hình sự theo quy định.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo: Trong vụ án này bị cáo Bùi thị H là người tham gia đánh bạc với số tiền lớn, tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo Bùi thị H 15 tháng tù là có căn cứ pháp luật. Nhưng xét trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội; được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội phạm, bố đẻ của bị cáo là thương binh, được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới: Mẹ đẻ của bị cáo được Nhà nước tặng kỷ niệm chương thanh niên xung phong, bố chồng là cán bộ lão thành cách mạng, anh trai chồng là liệt sỹ, chồng bị cáo đã chết. Nay bị cáo là lao động chính trong gia đình đang nuôi mẹ liệt sỹ và thờ cúng liệt sỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS mà cấp sơ thẩm chưa xem xét. Xét nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và hoàn cảnh gia đình bị cáo thì chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ nghiêm.

[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Bùi thị H được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS năm 2015

- Chấp nhận một phần nội dung đơn kháng cáo của bị cáo Bùi thị H sửa bản án sơ thẩm số 38/2019/HS-ST ngày 28/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh về phần hình phạt đối với bị cáo

Tuyên bố bị cáo Bùi thị H phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bùi thị H 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/10/2019).

Giao bị cáo Bùi thị H cho UBND phường Bắc Hà, thành ph Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật Thi Hành án hình sự hai lần trở lên, thì tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước đó và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của BLHS.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Bùi thị H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
  • Tên bản án:
    Bản án 136/2019/HS-PT ngày 17/10/2019 về tội đánh bạc
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    136/2019/HS-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    17/10/2019
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HS-PT ngày 17/10/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:136/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về