TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 136/2019/HS-PT NGÀY 07/3/2019 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 76/2019/HSPT ngày 11/01/2019 đối với bị cáo Trần Hoàng H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 224/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.
Bị cáo có kháng cáo:
Trần Hoàng H, sinh năm: 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Số 32/33/2B đường Ô, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Phòng B7.17 Chung cư T, Số 295 đường T1, phường T2, quận T3, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: làm thuê; dân tộc: kinh; tôn giáo: Phật; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Kim L và bà Dương Thị Kim C; có vợ Lê Võ Thanh T và 02 con sinh năm 2017 và năm 2018; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam ngày 18/5/2018, đến ngày 15/8/2018 được thay thế biện pháp tạm giam bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo tại ngoại (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 02/2018, Trần Hoàng H vào trang mạng xã hội Facebook, sử dụng nickname “Tran Hoang Hai” và số điện thoại 0933339746, 0936665253 tham gia vào hội “Mua bán xe Noop” chuyên mua bán xe có nguồn gốc do người khác phạm tội mà có và cung cấp giấy đăng ký xe, biển số xe gắn máy giả để mua các xe gắn máy này bán lại kiếm lời. Tại đây, H quen các đối tượng tên Huy, Đen (không rõ lai lịch) là thành viên của hội Noop. Huy là người mua lại các xe gắn máy do người khác phạm tội mà có (không có giấy tờ xe) rồi báo cho H biết để giao dịch mua bán. H đã mua của Huy tổng cộng 11 xe gắn máy khác nhau và mua của một đối tượng tên Đen (không rõ lai lịch) 01 xe biển số 59M1 - 789.78 rồi để lại sử dụng, khi mua H biết rõ tất cả các xe này có nguồn gốc do người khác phạm tội mà có.
Để tiêu thụ số xe gắn máy đã mua của Huy, H liên hệ với Toàn “Nhóc” cũng là thành viên của hội Noop, sử dụng nickname Facebook “Nhóc Nhỏ” và số điện thoại: “01688243699” chuyên cung cấp giấy đăng ký xe gắn máy giả, để đặt làm giấy đăng ký xe giả với chi phí 1.100.000 đồng 01 giấy, riêng xe SH thì giá là 1.500.000 đồng 01 giấy. Sau khi nhận thông tin từ H, khoảng hai ngày sau Toàn sẽ gặp H tại khu vực trước quán nước Sâm số 70 Đường số 1, phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân để giao giấy đăng ký xe và nhận tiền. Sau khi có giấy đăng ký xe giả, H sẽ đăng bán xe trên mạng chotot.vn để tìm người mua.
Tại cơ quan điều tra, Trần Hoàng H khai nhận đã tiêu thụ được 12 xe gắn máy các loại trong đó bán cho Vũ Công Danh 09 xe gắn máy các loại, thu lợi bất chính 44.100.000 đồng. Khi bán xe cho Danh, H nói cho Danh biết xe có giấy tờ hợp pháp do H nhận thế chấp của các đối tượng chơi cá độ nhưng không có khả năng chuộc lại nên bán để thanh lý, đồng thời, H cũng làm giấy cam kết xe không có tranh chấp để giao cho Danh. Cụ thể các xe H đã tiêu thụ như sau:
Vụ thứ 1: đầu tháng 4/2018, Huy bán cho H 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển số 59K2-038.02 với giá 19.000.000 đồng. H đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng rồi bán lại cho Vũ Công Danh với giá 25.500.000 đồng, thu lợi 5.400.000 đồng. Chiếc xe này Danh giữ lại để sử dụng. Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 giấy đăng ký xe giả 59K2-038.02 mang tên Trần Minh Hùng và 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển số 59K2-038.02 có số khung 0610GY358737, số máy G3D4E376447 có số khung số máy nguyên thủy, xe có biển số thật là 74G1-089.77 do Nguyễn Đinh Mùi đứng tên chủ sở hữu. Tại bản kết luận định giá số 194/KL ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận chiếc xe này trị giá 34.500.000 đồng. Ông Mùi khai vào khoảng 22 giờ 30 ngày 01/5/2018 ông điều khiển xe gắn máy biển số 74G1 - 089.77 đến gửi ở công ty TNHH Cơ Khí Việt Nhật Tân tại số 35/19/15 Phan Văn Hớn, phường Tân Thới Nhất, Quận 12 rồi ngủ qua đêm tại đây và bị kẻ gian đột nhập vào công ty chiếm đoạt mất (căn cứ dữ liệu camera) và đã báo công an. Cơ quan điều tra đã gửi công văn đến cơ quan điều tra công an quận 12 để phối hợp điều tra, đồng thời ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả chiếc xe nêu trên cho ông Nguyễn Đinh Mùi.
Vụ thứ 2: khoảng cuối tháng 4/2018, H mua của một đối tượng tên Đen (không rõ lai lịch) một xe gắn máy Honda Airblade biển số 59M1-789.78 với giá 25.000.000 đồng rồi đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng và sử dụng xe làm phương tiện để đi lại. Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 giấy đăng ký xe giả 59M1-789.78 mang tên Hồ Thanh Tuấn và 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số 59M1 - 789.78, số máy: JF63E2072931, số khung: RLHJF6324HZ060860 nguyên thủy, xe có biển số thật là 63B1 - 747.40 do anh Phan Huy Hoàng đứng tên chủ sở hữu. Theo kết luận định giá số 194/KL ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận chiếc xe trên trị giá 29.500.000 đồng. Chiếc xe này, anh Hoàng khai khoảng 20 giờ 00 ngày 6/4/2018, anh đang điều khiển xe gắn máy biển số: 59M1 – 789.78 thì bị một nhóm đối tượng ép xe đánh ngất xỉu tại trước nhà số 30/26 ấp Nam Thới, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn rồi chiếm đoạt xe. Anh Hoàng có đến Công an trình báo vụ việc. Cơ quan điều tra đã bàn giao xe gắn máy nêu trên cho công an huyện Hóc Môn tiếp nhận thụ lý theo thẩm quyền.
Vụ thứ 3: Khoảng đầu tháng 5/2018, H mua của Huy một xe gắn máy Shi 125 biển số 59H1 - 099.16 với giá 27.000.000 đồng và đặt Toàn làm một giấy đăng ký xe giả với giá 1.500.000 đồng rồi bán xe lại cho Vũ Công Danh với giá 33.000.000 đồng, thu lợi được 3.900.000 đồng. Sau khi mua xe, Danh đăng bán trên mạng chotot.vn với giá 51.500.000 đồng thì bị Trần Khoa Văn (là chủ xe) phát hiện nên hẹn Danh gặp để mua xe, đồng thời trình báo công an quận Gò Vấp tiến hành bắt giữ. Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 giấy đăng ký xe giả 59H1-099.16 mang tên Trần Thanh Duy và 01 xe gắn máy hiệu Honda Shi 125 biển số 59H1-099.16, số máy JF4-2E0083792, số khung 42170Y073793 có số khung số máy nguyên thủy, xe có biển số thật là 49K1-5320.70 do anh Trần Khoa Văn đứng tên sở hữu. Theo kết luận định giá số 194/KL ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận chiếc xe trên trị giá 52.500.000 đồng. Anh Văn khai: vào khoảng 04 giờ 00 ngày 09/5/2018, điều khiển xe gắn máy honda Shi biển số: 49K1-5320.70 trên đường về nhà, do say xỉn nên dừng xe lại cạnh nhà số 124 đường Bình Long, quận Bình Tân ngủ và bị kẻ gian chiếm đoạt. Anh đã đến công an phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân trình báo vụ việc. Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe trên cho anh Trần Khoa Văn.
Vụ thứ 4: vào tối ngày 15/5/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy Airblade màu đen biển số 59N1-727.09 với giá 14.000.000 đồng, H đặt Toàn làm một giấy đăng ký xe giả nhưng Toàn chưa giao nên H chưa bán xe và để xe tại nhà, sau đó bị công an khám xét thu giữ.
Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 xe gắn máy hiệu Airblade màu đen biển số 59N1-727.09, số máy JF46E-0135912, số khung RLHJF4600DY113438 có số khung số máy nguyên thủy, xe có biển số không đổi do Nguyễn Hoàng đứng tên chủ sở hữu xe. Theo kết luận định giá số 194/KL ngày 13/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận chiếc xe trên trị giá 24.500.000 đồng. Hoàng khai mua xe gắn máy trên vào khoảng tháng 01/2014 với giá khoảng 32.000.000 đồng, sử dụng làm phương tiện đi lại, tối ngày 14/5/2018, con gái của anh là Nguyễn Song Quỳnh sử dụng xe gắn máy để đi chơi, khoảng 02 giờ 00 ngày 15/5/2018, khi Quỳnh dừng xe trên lề đường ở trước siêu thị tiện ích Family mart ở ngã 3 Nguyễn Đình Chiểu - Phan Kế Bính, phường Đakao, Quận 1 thì bị 02 nam thanh niên dùng vũ lực chiếm đoạt mất xe, Quỳnh có đến Công an Quận 1 để trình báo. Cơ quan điều tra đã bàn giao xe gắn máy nêu trên cho Công an Quận 1 để xử lý theo thẩm quyền.
Ngoài 04 vụ tiêu thụ xe do người khác phạm tội mà có, thu giữ được vật chứng như đã nêu trên, H còn khai nhận đã thực hiện 08 vụ tiêu thụ xe do phạm tội mà có khác, cụ thể như sau:
- Vụ thứ 1: đầu tháng 02/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng (không nhớ biển số) với giá 15.000.000 đồng, khi mua H biết nguồn gốc xe do người khác phạm tội mà có và đặt Toàn làm giả giấy đăng ký xe theo thông tin số khung, số máy và biển số xe với giá 1.100.000 đồng. H đã bán lại xe cho Danh và cho biết nguồn gốc xe là H cầm của đối tượng thua cá độ đá bóng không chuộc lại nên thanh lý, có giấy tờ xe chính chủ đồng thời H có làm giấy cam kết bán xe bao tranh chấp đưa cho Danh giữ. H hưởng lợi được 4.900.000đồng. Sau khi mua xe ngày hôm sau Danh chụp hình xe cùng giấy đăng ký xe rao bán trên trang mạng chotot.vn theo dạng xe có giấy tờ chính chủ, bao tranh chấp rồi bán lại cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 22.500.000đồng, Danh hưởng lợi 2.000.000đồng.
- Vụ thứ 2: khoảng giữa tháng 02/2018, H mua của đối tượng Huy 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu đen nhám (không rõ biển số) với giá 14.000.000 đồng và đặt Toàn làm giả giấy đăng ký xe với giá 1.100.000 đồng rồi lại bán cho Danh với giá 20.000.000 đồng, hưởng lợi 4.900.000 đồng. Danh đã bán cho một cặp vợ chồng (không rõ lai lịch) với giá 22.500.000 đồng, thu lợi 2.500.000đồng.
- Vụ thứ 3: khoảng đầu tháng 03/2018, H mua của Huy 01 xe Yamaha Excter 150 màu xanh dã chiến (không nhớ biển số) với giá 19.000.000 đồng và đặt Toàn làm giả giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng và bán lại cho Danh với giá 29.500.000 đồng, Danh đã bán lại cho một nam thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 33.000.000đồng, thu lợi 3.500.000 đồng.
- Vụ thứ 4: khoảng giữa tháng 03/2018, H mua của đối tượng Huy 01 xe Honda Airblade màu xanh dương (không rõ biển số) với giá 19.000.000 đồng và đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng rồi bán lại cho Danh với giá 23.000.000 đồng, Danh đã bán cho một nam thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 26.000.000 đồng, thu lợi 3.000.000 đồng.
- Vụ thứ 5: khoảng cuối tháng 3/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số: 59Y2 – 989.88 với giá 19.000.000 đồng, đặt Toàn làm giả giấy đăng ký xe rồi bán cho Danh với giá 23.000.000 đồng, hưởng lợi 2.900.000 đồng. Danh đã bán cho một cặp vợ chồng (không rõ lai lịch) với giá 26.000.000 đồng, thu lợi 3.000.000 đồng.
- Vụ thứ 6: cuối tháng 3/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter màu trắng đỏ biển số: 59Y1 – 880.80 với giá 20.500.000 đồng, đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng rồi bán cho Danh với giá 27.000.000 đồng, Danh bán lại cho 02 nam thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 30.000.000 đồng, thu lợi 3.000.000 đồng.
- Vụ thứ 7: khoảng cuối tháng 4/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu đỏ (không nhớ biển số) với giá 19.000.000 đồng, đặt Toàn làm giả giấy đăng ký xe rồi bán lại cho Danh với giá 23.000.000 đồng, hưởng lợi 2.900.000 đồng. Danh bán lại xe cho một cặp vợ chồng (không rõ lai lịch) với giá 26.000.000 đồng, thu lợi 3.000.000 đồng.
- Vụ thứ 8: ngày 12/5/2018, H mua của Huy 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu trắng đen (không rõ biển số) với giá 15.000.000 đồng, đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả với giá 1.100.000 đồng rồi bán cho một đối tượng tên Ty (không rõ lai lịch) với giá 17.500.000 đồng, hưởng lợi 1.400.000 đồng.
Tại bản kết luận định giá tài sản 94/KL ngày 28/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự kết luận: do không có hóa đơn chứng từ, không xác định được thông số kỹ thuật nên không có cơ sở kết luận chính xác giá trị của 08 xe gắn máy các loại đã qua sử dụng, gồm 02 xe máy kiểu Vison, 03 xe máy kiểu Airblade và 03 xe máy kiểu exciter nêu trên.
Tiến hành khám xét nhà Võ Ngọc Toàn tại số 479/30 Hương lộ 2, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân thu giữ 03 giấy đăng ký xe gắn máy giả của xe hiệu Honda Aiblade biển số 59C1 - 659.26 màu đen bạc, hiệu Honda Airblade màu đen bạc biển số 62M1 - 367.56 và hiệu Honda Winner biển số 77G1 - 365.32.
Tại Cơ quan điều tra: Võ Ngọc Toàn khai nhận đã nhận làm cho Trần Hoàng H tổng cộng 14 giấy đăng ký xe gắn máy giả, trong đó có 06 giấy đăng ký gồm các xe biển số: 62M1 – 367.56, 77G1 – 365.32, 59M1 – 789.78, 59C1 – 659.26, 59H1 – 099.16, 59K2 – 038.02 bị thu giữ nêu trên. Toàn khai khi H có nhu cầu đặt làm giấy đăng ký xe giả thì liên hệ với Toàn đặt làm với chi phí 1.100.000 đồng, riêng xe Sh thì giá 1.500.000 đồng/giấy. Toàn liên hệ với một đối tượng tên Long (không rõ lai lịch) sử dụng số điện thoại 01688243699 để đưa cho Long làm giả giấy đăng ký xe với giá 800.000 đồng/01 giấy (riêng loại xe SH thì giá 1.200.000đồng/01 giấy). Khoảng một ngày, Long làm xong giấy đăng ký xe giả thì hẹn Toàn qua khu vực phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân để giao, Toàn giao lại cho H rồi nhận tiền đưa lại cho Long, hưởng lợi 300.000 đồng/giấy. Tổng cộng, Toàn thu lợi bất chính được số tiền 3.300.000 đồng, riêng 03 giấy đăng ký xe giả thu giữ được tại nhà Toàn là của H đặt làm cho một đối tượng tên Ty, nhưng chưa kịp giao cho H để H giao lại cho Ty thì bị công an kiểm tra thu giữ như đã nêu trên.
Tại cơ quan điều tra, Vũ Công Danh khai nhận: vào khoảng tháng 02/2018 Danh lên trang mạng chotot.vn tìm mua xe gắn máy với giá rẻ rồi bán lại cho người khác kiếm lời và quen biết với Trần Hoàng H. H cho Danh biết có quen với nhóm người chuyên tham gia cá độ đá bóng, bắn cá ăn tiền nên H thường nhận thế chấp xe gắn máy cho nhóm đối tượng cờ bạc này, khi nào có xe gắn máy mà các đối tượng cầm không chuộc lại thì H sẽ liên hệ báo cho Danh biết để mua xe. Khi bán xe cho Danh, H giao cho Danh đầy đủ giấy đăng ký xe và giấy cam kết xe không có tranh chấp. Danh đã mua của H 09 xe gắn máy và bán lại thu lợi được 19.500.000 đồng. Khi mua xe Danh không biết xe có nguồn gốc do phạm tội mà có.
Ngày 02/10/2018, bà Dương Ngọc Tuyết là mẹ ruột của Võ Ngọc Toàn đã thay Toàn nộp lại số tiền 3.300.000 đồng tiền thu lợi bất chính. Ngày 16/7/2018, ông Trần Kim Long là cha ruột của H đã thay H nộp lại số tiền 44.100.000 đồng tiền thu lợi bất chính.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 224/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố bị cáo Trần Hoàng H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”.
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 323; điểm a khoản 3 Điều 341; Điều 55; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Hoàng H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18/5/2018 đến ngày 15/8/2018.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên buộc tịch thu các khoản tiền thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 03/12/2018, bị cáo Trần Hoàng H kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xin giảm nhẹ hình phạt để sớm có điều kiện hòa nhập xã hội và làm lại cuộc đời, tiếp tục lao động để lo cho vợ mới sinh và 02 con nhỏ.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Trần Hoàng H đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do mức án đã tuyên là quá nặng, bị cáo lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bản thân đang là lao động chính trong gia đình, vợ mới sinh, 02 con còn quá nhỏ có xác nhận của chính quyền địa phương; bị cáo rất ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, giúp đỡ cơ quan chức năng nhanh chóng làm sáng tỏ nội dung vụ án; đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính nhằm khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Trần Hoàng H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c, d khoản 2 Điều 323 và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước” theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, thể hiện thái độ ăn năn hối cải mong muốn được giảm nhẹ hình phạt nhưng không nêu thêm được tình tiết gì mới. Mức án 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Trần Hoàng H không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện sửa chữa lỗi lầm, làm việc, phụ vợ nuôi dạy các con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Gò Vấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Gò Vấp, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Trần Hoàng H đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: từ đầu tháng 02/2018, bị cáo vào trang mạng xã hội tham gia vào hội “Mua bán xe Noop” chuyên mua bán xe có nguồn gốc do người khác phạm tội mà có và cung cấp giấy đăng ký xe, biển số xe gắn máy giả để mua các xe gắn máy nhằm bán lại kiếm lời. Bị cáo đã mua của Huy (không rõ lai lịch) 11 xe gắn máy khác nhau và mua của Đen (không rõ lai lịch) 01 xe biển số 59M1 - 789.78 rồi để lại sử dụng, khi mua bị cáo biết rõ tất cả các xe này có nguồn gốc do người khác phạm tội mà có. Sau đó, bị cáo liên hệ với Võ Ngọc Toàn để đặt làm giấy đăng ký xe giả với chi phí 1.100.000 đồng 01 giấy, riêng xe SH thì chi phí là 1.500.000 đồng 01 giấy rồi đăng bán xe trên mạng chotot.vn để tìm người mua. Cơ quan điều tra đã thu giữ được 04 xe gắn máy và 04 giấy đăng ký xe gắn máy giả, gồm: 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter màu đen nhám biển số 59K2-038.02 trị giá 34.500.000 đồng của ông Nguyễn Đinh Mùi bị trộm cắp từ ngày 01/5/2018; 01 xe gắn máy Honda Airblade biển số 59M1-789.78 trị giá 29.500.000 đồng của anh Phan Huy Hoàng trước đó vào khoảng 20 giờ 00 ngày 6/4/2018, anh Hoàng đã bị một nhóm đối tượng ép xe đánh ngất xỉu tại trước nhà số 30/26 ấp Nam Thới, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn rồi chiếm đoạt xe; 01 xe gắn máy Shi 125 biển số 59H1 - 099.16 trị giá 52.500.000 đồng của ông Trần Khoa Văn bị mất vào khoảng 04 giờ 00 ngày 09/5/2018, khi trên đường về nhà, do say xỉn nên dừng xe lại cạnh nhà số 124 đường Bình Long, quận Bình Tân ngủ và bị chiếm đoạt; 01 xe gắn máy Airblade màu đen biển số 59N1-727.09 trị giá 24.500.000 đồng của ông Nguyễn Hoàng bị mất vào khoảng 02 giờ 00 ngày 15/5/2018, khi con gái ông là Nguyễn Song Quỳnh điều khiển xe dừng trên lề đường ở trước siêu thị tiện ích Family mart ở ngã 3 Nguyễn Đình Chiểu - Phan Kế Bính, phường Đakao, Quận 1 thì bị 02 nam thanh niên dùng vũ lực chiếm đoạt. Chủ sở hữu của 04 xe gắn máy này đều đã trình báo về việc mất xe và đã được nhận lại tài sản.
Ngoài 04 lần tiêu thụ xe do người khác phạm tội mà có như trên, bị cáo còn thừa nhận trước đó bị cáo đã 08 lần thực hiện việc mua xe gắn máy của Huy là các xe gắn máy do phạm tội mà có khác, rồi đặt Toàn làm giấy đăng ký xe giả, sau đó bán lại cho Danh và Ty (không rõ lai lịch) thu lợi được 44.100.000 đồng. Cụ thể: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng (không nhớ biển số) thu lợi được 4.900.000 đồng; 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu đen nhám (không rõ biển số) thu lợi được 4.900.000 đồng; 01 xe Yamaha Excter 150 màu xanh dã chiến (không nhớ biển số) thu lợi được 3.500.000 đồng; 01 xe Honda Airblade màu xanh dương (không rõ biển số) thu lợi 2.900.000 đồng; 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade biển số: 59Y2 – 989.88 thu lợi 2.900.000 đồng; 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter màu trắng đỏ biển số: 59Y1 – 880.80, thu lợi 5.400.000 đồng; 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu đỏ (không nhớ biển số) thu lợi 2.900.000 đồng và 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade màu trắng đen (không rõ biển số) thu lợi 1.400.000 đồng.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng… nên có đủ cơ sở xác định bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Trần Hoàng H phạm các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c, d khoản 2 Điều 323 và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước” theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xét xử đối với bị cáo và đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính; tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Trong vụ án này, bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự về 04 lần mua xe của Huy và Đen (không rõ lai lịch), biết rõ xe là do người khác phạm tội mà có, không có giấy tờ chứng minh sở hữu hợp pháp nhưng vẫn mua, sau đó bị cáo đặt Võ Ngọc Toàn làm giả với giá 1.100.000 đồng/giấy để bán lại cho Vũ Công Danh để kiếm lời và giữ lại 01 xe gắn máy để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Ngoài 04 lần phạm tội này bị bắt, khám xét và thu giữ thì bị cáo còn phải chịu trách nhiệm hình sự về 08 lần đã thực hiện trước đó nhưng không thu giữ được xe gắn máy cũng như giấy đăng ký xe giả. Việc bị cáo tự nguyện khai báo ra, thậm chí còn khai chi tiết thời gian, cách thức thực hiện, số tiền thu lợi và tự nguyện tác động gia đình nộp lại số tiền thu lợi bất chính, chính sự tự nguyện khai báo và dựa trên lời khai này mới đủ căn cứ để xác định trị giá tài sản bị cáo phạm pháp, số tiền thu lợi bất chính, làm giả hơn 06 giấy đăng ký xe mà bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và định khung hình phạt về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c, d khoản 2 Điều 323 và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước” theo điểm a khoản 3 Điều 341 của Bộ luật hình năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Với tình tiết rất quan trọng kể trên được dùng làm căn cứ để định khung hình phạt với bị cáo đồng thời đây cũng được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự thú” nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét tình tiết này để áp dụng cho bị cáo là chưa đầy đủ, dẫn đến chưa đánh giá dúng tính chất mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
[4] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thể hiện thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ mới sinh chưa có việc làm, 02 con sinh năm 2017 và năm 2018 còn quá nhỏ, bị cáo đang là lao động chính trong gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương; đã nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính nhằm khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra; lần đầu phạm tội, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội tự thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, chưa được xem xét. Như vậy, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s, r khoản 1 Điều 51 và nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Mức án 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là có phần nặng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo sớm có điều kiện sửa chữa lỗi lầm, chuyên tâm cải tạo tốt, trở về cộng đồng, làm lại cuộc đời, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của nhà nước đối với người lần đầu phạm tội.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hoàng H, sửa bản án sơ thẩm số 224/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp.
Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”.
Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 323; điểm a khoản 3 Điều 341; khoản 1 Điều 54; Điều 55; điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Hoàng H 02 (hai) năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức nhà nước”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18/5/2018 đến ngày 15/8/2018.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 136/2019/HS-PT ngày 07/03/2019 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 136/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về