Bản án 136/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 136/2017/HSST NGÀY 27/09/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 27 tháng 9 năm 2017 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 124/2017/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân Đ- Sinh ngày 01/10/1976, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An;

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Xóm 3, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Trình độ học vấn: Lớp 8/12;

Nghề nghiệp: Lái xe;

Con ông: Nguyễn Xuân V (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T;

Có vợ là: Hồ Thị L và có 02 con; Tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/4/2017, đến ngày 04/5/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn, hiện đang tại ngoại nơi cư tru, có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Ông Đỗ Minh N- sinh năm 1948 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Lương Minh T (là em rể người bị hại Đỗ Minh N)- sinh năm 1954. Trú quán: Tổ 86, khu 8, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên toà.

Bị đơn dân sự: Công ty cổ phần xây dựng Q- Địa chỉ: Khu 7, phường H, TP. M, tỉnh Quảng Ninh. Người đại diện theo ủy quyền: anh Nguyễn Văn C- sinh 1975. Trú tại: số nhà 83, phố T, phường B, TP. H, tỉnh Hải Dương, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị S- sinh 1952. Trú tại: Tổ 86, khu 8, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Xuân Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Xuân Đ (có giấy phép lái xe hạng FC) lái xe thuê cho Công ty cổ phần xây dựng Q, trụ sở tại khu 7, phường H, thành phố M. Ngày 25/4/2017, Đ điều khiển xe ô tô biển số 14C-178... kéo sơmi rơmoóc xitéc biển số 14R-008... từ huyện Hải Hà đến Nhà máy xi măng Cẩm Phả để nhận hàng. Khoảng 17 giờ 55 phút cùng ngày, Đ điều khiển xe đến đoạn đường quốc lộ 18A, thuộc tổ 5, khu 4B, phường C1, thành phố C, là đoạn đường đang thi công, phần đường bên phải theo chiều Cửa Ông– Cẩm Phú bị chắn bởi các cọc tiêu, nên các phương tiện chỉ lưu thông được trên phần đường bên trái theo chiều Cửa Ông – Cẩm Phú, có biển cảnh báo đường hẹp (biển số 203c), đi chậm (biển số 245a). Đ điều khiển xe đi vào làn đường bên trái theo chỉ dẫn của biển cảnh báo với vận tốc khoảng 40km/h. Do Đ điều khiển xe không chú ý quan sát, không đảm bảo tốc độ và khoảng cách an toàn, nên khi xe đi vào phần đường bên trái được khoảng 10m thì phần đầu xe ô tô đầu kéo biển số 14C-178.93 đã đâm vào đuôi xe mô tô biển số 14U1-170.62 do ông Đỗ Minh N (sinh năm 1948, trú tại tổ 86, khu 8, phường C, thành phố C) điều khiển đi phía trước cùng chiều, làm xe mô tô và ông N bị đổ, ngã vào gầm xe ô tô và bị đẩy trượt trên mặt đường khoảng 33 mét mới dừng lại. Hậu quả: Ông Đỗ Minh N bị tử vong, xe mô tô bị hư hỏng.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: Nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường Quốc lộ 18A đang nâng cấp cải tạo, chiều đường Cửa Ông – Cẩm Phú đang thi công, căng dây không cho phương tiện đi vào. Chiều đường Cẩm Phú - Cửa Ông mặt đường rộng 08m đo tới mép dải phân cách cố định; đo tới mép cọc tiêu đặt dọc tuyến dải phân cách cố định đang thi công rộng 7,3m; lề đất tại vị trí đầu vết cày rộng 0,7m, lề đất rộng nhất là 1,9m. Lề bên phải chiều Cửa Ông – Cẩm Phú, cách nơi xảy ra tai nạn về phía Cửa Ông 170m có biển cảnh báo đường hẹp (biển số 203c), đi chậm (biển số 245a). Mốc xác định trục bánh trước bên trái xe ô tô cách cột km 157 là 13,8m. Các số đo dấu vết, phương tiện được lấy vào mép đường bên phải theo chiều Hạ Long – Tiên Yên như sau:

+ (1) Vị trí đất rơi vãi trên mặt đường dọc dải phân cách cố định, kích thước (6,9x1,4)m, điểm rộng nhất cách đầu vết cày xước 0,7m, cao 26cm, đã chiếm một phần đường của người tham gia giao thông.

+ (2) Vết cày xước trên mặt đường dài 19,3m, đầu vết cày cách mép đường 5,6m, cuối vết trùng giá để chân trước bên phải và giá để chân sau bên phải xe mô tô biển số 14U1 – 170....

+ (3) Vị trí bánh trước xe mô tô trên mặt đường, tâm trục cách mép đường 4,3m, cách đầu vết cày 14,6m, cách tâm trục bánh sau xe mô tô 4,8m.

+ (4) Xe mô tô biển số 14U1-170... nằm đổ nghiêng bên phải, đầu quay  mép đường bên trái, đuôi xe quay mép đường bên phải, trục bánh sau cách mép đường là 4m, càng bánh xe phía trước cách mép đường là 5,1m.

+ (5) Các tế bào tổ chức cơ thể người bám tỳ trên mặt đường dài 15,4m, đầu vết trùng tay xách phía sau xe mô tô, cuối vết trùng đầu nạn nhân.

+ (6) Vị trí nạn nhân nam tư thế nằm ngửa dưới gầm sơmi rơmoóc xi téc  biển số 14R-008..., sát má lốp trong bên trái, tay phải bị bánh lốp thứ 2 từ dưới lên tỳ vào.

Đầu nạn nhân cách mép đường 4,5m, chân nạn nhân cách mép đường 4,5m, cách tâm trục bánh sau bên trái của rơmooc là 1m.

+(7) Xe ô tô biển số 14C-176... kéo sơmi rơmoóc xi téc biển số 14R-008... đỗ đầu quay hướng Cẩm Phú, trục bánh trước bên trái đầu kéo cách mép đường 4,1m, trục bánh sau bên trái đầu kéo cách mép đường 3,7m, trục bánh sau bên trái rơmooc cách mép đường 3,5m, tâm trục trùng tâm chân nạn nhân và cách trục bánh sau xe mô tô biển số 14U1-170... là 13,9m.

Tại Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:

- Xe ô tô biển số 14C-178... kéo sơmi rơmoóc xitéc biển số 14R-008...: Biển số xe phía trước bị cong vênh biến dạng, chiều hướng trái sang phải, sau về trước, dưới lên trên. Tấm lót biển số bằng kim loại, tại đường gân bên trái phía dưới số 93 có vết trượt xước sơn mầu đen lộ sáng kim loại kích thước (4x0,5)cm, hướng từ trên xuống dưới, điểm cao nhất cách đất 87,2cm, điểm thấp nhất cách đất 86cm. Tại mặt trước bên trái phía dưới biển số có dấu vết trượt xước sơn, xước và cong vênh biến dạng kim loại, hướng trước về sau, trên xuống dưới, bám dính chất mầu đen dạng nhựa và chất mầu trắng dạng nilon trắng trong, kích thước (17,5x1,5)cm, điểm thấp nhất cách đất 76,2cm, điểm cao nhất cách đất 85cm. Tại mặt trước cạnh dưới bên trái xương đỡ biển số có dấu vết cong vênh biến dạng kim loại, hướng trước về sau, tại vị trí này dính chất mầu đen dạng nhựa kích thước (5x2)cm, điểm thấp nhất cách đất 75,8cm. Tại mặt trước bađờxốc trước ở vị trí phía trước biển số có vết trượt xước sơn, hướng trước về sau, trái sang phải kích thước (14x5)cm, điểm cao nhất cách đất 73,8cm, điểm  thấp nhất cách đất 71cm. Đầu két mát vỡ thủng kích thước (3,5x2,5)cm. Tại mặt dưới trước phía trong của lá nhíp có vết xước sáng kim loại kích thước (2x1)cm. Mặt trước dưới thanh kim loại của giằng cầu và mặt trước dưới của cầu 1 có vết trượt xước mất bụi, sáng kim loại kích thước (80x22)cm, điểm thấp nhất cách đất 31cm. Mặt dưới trước cắt te có dính chất mầu nâu nghi máu, kích thước (5x2,5)cm, mặt dưới đáy cắt te có vết xước bẹp lõm kim loại kích thước (12x0,5)cm, hướng trước về sau, dưới lên trên. Tại má lốp trong bánh lốp kép trục 1 bên trái rơmooc có vết trượt xước cao su mất bụi kích thước (16x3,5)cm, hướng từ mặt lăng vào tâm trục. Tại má lốp trong bánh lốp kép trục 2 bên trái rơmoóc có vết trượt xước cao su mất bụi kích thước (26x24)cm hướng từ mặt lăng vào tâm trục.

- Xe mô tô biển số 14U1-170...: Nhựa ốp phía trên cụm đèn chiếu hậu vỡ bật khỏi vị trí ban đầu, cài rắt vào phía bên phải của xe, mặt trên nhựa ốp dán nilon mầu trắng trong. Cụm đèn chiếu hậu vỡ bật khỏi vị trí ban đầu. Phía bên phải cụm đèn còn mảnh nhựa vỡ ốp sườn bên phải kích thước (25x19)cm, nhựa kính cụm đèn chiếu hậu vỡ bật khỏi vị trí ban đầu. Tại cạnh sau bên trái cụm đèn chiếu hậu có vết trượt xước nhựa kích thước (4x1,5)cm, hướng từ sau ra trước, vị trí nhựa ốp bên trái cụm đèn chiếu hậu bẹp lõm, vỡ nứt nhựa dài 0,8cm, hướng từ sau ra trước, trái sang phải. Mặt ngoài ốp trái cụm đèn chếu hậu dán nilon mầu trắng trong, nilon bị rách, mất ở nhiều vị trí trong diện (10x4,5)cm, chiều từ sau ra trước, trái sang phải, điểm thấp nhất cách đất 76cm. Giá kim loại chốt gá điểm cuối gần cụm đèn chiếu hậu của 2 miếng nhựa ốp sườn xe bị đẩy cong từ sau ra trước, trái sang phải.

Sau khi gây tai nạn, Nguyễn Xuân Đ đã đến Công an thành phố Cẩm Phả đầu thú và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản cáo trạng số 130/KSĐT-HS ngày 25/8/2017, VKSND thành phố Cẩm Phả đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân Đ về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện VKSND thành phố Cẩm Phả giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Xuân Đ từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Xuân Đ đã khai nhận toàn bộ hành phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đã truy tố bị cáo, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi ngày 25/4/2017 và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 51/GĐPY ngày 16/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: ông Đỗ Minh N tử vong do chấn thương sọ não hở.

Tại Bản kết luận giám định số 18/GĐDV ngày 03/5/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, xác định: Dấu vết vỡ nhựa ốp ngoài cụm đèn hậu, trượt xước mất nhựa mầu đen tại cạnh sau bên trái lõi cụm đèn chiếu hậu và dấu vết bẹp lõm nhựa, xước rách mất nilon mầu trắng trong (nilon chống xước sơn xe) của nhựa ốp bên trái cụm đèn hậu xe mô tô gắn biển số 14U1-170... có chiều từ sau về trước, từ trái sang phải, phù hợp với dấu vết bám dính nhựa mầu đen và nilon mầu trắng trong tại cạnh dưới bên trái tấm lót phía sau biển số trước đầu xe ô tô đầu kéo gắn biển số 14C-178.... Dấu vết va chạm ở xe ô tô đầu kéo gắn biển số 14C-178.... tại vị trí này có chiều từ trước về sau.

Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị S xác nhận: bà là vợ của ông Đỗ Minh N, sau khi xảy ra tai nạn bà và gia đình đã ủy quyền toàn bộ cho em rể là Lương Văn T tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến tai nạn của ông Đỗ Minh N, nay gia đình bà đã nhận đền bù đầy đủ, gia đình bà không có yêu cầu gì thêm.

Đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Lương Văn T vắng mặt tại phiên tòa, tại cơ quan điều tra lời khai: ông là em rể của ông Đỗ Minh N được gia đình ông N ủy quyền tham gia tố tụng giải quyết việc ông N bị tai nạn giao thông tử vong ngày 25/4/2017, nay gia đình người bị hại đã được phía bị cáo bồi thường thỏa đáng nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm, về phần hình phạt, ông đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì bị cáo có hoàn cảnh khó khăn và tai nạn giao thông xảy ra là ngoài ý muốn.

Những người làm chứng chị Trương Thị T, chị Nguyễn Thị H, anh Hà Hồng Pg và anh Nguyễn Văn K vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo về thời gian, địa điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông.

Đại diện Bị đơn dân sự anh Nguyễn Văn C khai: Nguyễn Xuân Đ là lái xe của Công ty Cổ phần xây dựng Q, ngày 25/4/2017, Đ điều khiển xe ô tô BKS 14C-178... kéo sơmi rơmoóc xitéc BKS 14R-008... từ huyện Hải Hà đến Nhà máy xi măng Cẩm Phả để nhận hàng theo sự phân công của Công ty đã gây tai nạn giao thông làm chết một người tại khu vực đoạn đường Quốc lộ 18A thuộc tổ 5, khu 4B, phường C1. Sau khi gây tai nạn, Đ đã bồi thường đầy đủ cho gia đình người bị hại, Công ty không phải bồi thường gì thêm. Xe ôtô gây tai nạn bị hư hỏng nhẹ. Nay anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí sửa chữa xe.

Như vậy, với những nội dung trên, HĐXX thấy rằng, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà và tại cơ quan điều tra là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người làm chứng; lời khai của đại diện hợp pháp người bị hại; phù hợp sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường vụ giao thông, bản kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập thể hiện trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ 55 phút ngày 25/4/2017, tại đoạn đường Quốc lộ 18A thuộc tổ 5, khu 4B, phường C1, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh (đoạn đường hẹp, đang thi công), Nguyễn Xuân Đ đã có hành vi điều khiển xe ô tô biển số 14C-178... kéo sơmi rơmoóc xitéc biển số 14R-008... đi hướng Cửa Ông– Cẩm Phú, không chú ý quan sát, không giảm tốc độ an toàn khi có biển cảnh báo nguy hiểm, qua khu vực đang thi công, đường hẹp và không giữ khoảng cách an toàn đối với xe đi phía trước cùng chiều, nên đầu xe ô tô biển số 14C-178... đã đâm vào đuôi xe mô tô biển số 14U1-170... do ông Đỗ Minh N điều khiển đi phía trước cùng chiều, làm ông   N bị tử vong, xe mô tô biển số 14U1-170... bị hư hỏng, thiệt hại 5.890.000 đồng.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Xuân Đ đã vi phạm vào khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ; các khoản 1, 5 Điều 5, khoản 1 Điều 12 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Điều 12 Luật giao thông đường bộ quy định: Tc độ xe và khoảng cách giữa các xe

“1. Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường và phải giữ một khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình;...”

Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT quy định:

"Điều 5. Các trường hợp phải giảm tốc độ:

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp sau:

1. Có biển cảnh báo nguy hiểm ...

5. Qua … khu vực đang thi công trên đường bộ;...

Khoản 1 Điều 12. Khoảng cách an toàn giữa hai xe khi tham gia giao thông trên đường.

“…Khi điều khiển xe chạy với vận tốc từ 60 km/h trở xuống,… người lái xe phải chủ động giữ khoảng cách an toàn phù hợp với xe chạy liền trước xe của mình; khoảng cách này tùy thuộc vào mật độ phương tiện, tình hình giao thông thực tế để đảm bảo an toàn”.

Hành vi vi phạm trên của Nguyễn Xuân Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. HĐXX thấy rằng, VKSND thành phố Cẩm Phả đã truy tố bị cáo về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy hành vi phạm tội của Nguyễn Xuân Đ là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, trực tiếp xâm phạm tới an toàn, sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, gây thiệt hại tới tính mạng và tài sản của công dân. Quá trình tham gia giao thông Quyết đã không tuân thủ, chấp hành Luật giao thông đường bộ dẫn đến hậu quả gây tai nạn làm chết 01 người, gây đau thương tang tóc cho gia đình người bị hại, gây mất trật tự trị an nơi công cộng và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy cần phải lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm.

Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi thường trú rõ ràng; Chưa tiền án, tiền sự; Sau khi phạm tội ra đầu thú, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo có bố và mẹ được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì, bản thân bị cáo cũng đã từng có thời gian tham gia trong quân đội; Bị cáo đã bồi thường thỏa đáng cho gia đình người bị hại, được đại diện hợp pháp của người bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, điều đó đã làm giảm bớt đi tính chất nghiêm trọng của vụ án. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà để bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương dưới sự giám sát của gia đình và xã hội trong một thời gian nhất định cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của gia đình người bị hại. Nay đại diện hợp pháp của người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường, bị đơn dân sự không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí sửa xe, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra thu giữ: 01 xe ô tô đầu kéo 14C- 178...,rơ móoc 14R- 008..., 01 xe mô tô BKS 14U1- 170... và 01 giấy phép lái xe số 400108003091 mang tên Nguyễn Xuân Đ.

Xét thấy: 01 xe ô tô đầu kéo 14C- 178..., rơ móoc 14R- 008... và 01 xe mô tô BKS 14U1- 170... đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu, HĐXX không đề cập lại. Đối với giấy phép lái xe đang lưu trong hồ sơ vụ án cần trả lại cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 202 BLHS, người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề lái xe ôtô trong một thời gian nhất định, nhưng xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, lái xe là nghề chính của bị cáo, do vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyến bố: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân Đ 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân Đ cho Uỷ ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Xuân Đ 01 giấy phép lái xe số 400108003091 mang tên Nguyễn Xuân Đ do Sở giao thông vận tải tỉnh Nghệ An cấp ngày 21/8/2013.

Về án phí: Áp dụng theo khoản 2 điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo và Bị đơn dân sự, vắng mặt đại diện hợp pháp của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án về phần bồi thường thiệt hại trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đại diện hợp pháp của người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án về phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

550
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2017/HSST ngày 27/09/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:136/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về