TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 135/2020/HS-PT NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2019/TLPT-HS ngày 02-12-2019 đối với bị cáo Vương Thế H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
- Bị cáo có kháng cáo:
Vương Thế H, sinh ngày 21/10/1982 tại Sơn La; Nơi cư trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông Vương Văn T (đã chết), con bà Đỗ Thị T; Vợ là V Thị Phương T, sinh năm 1987 (đã ly hôn năm 2017); con Vương Thế Dũng, sinh năm 2015 hiện ở với mẹ; Tiền án, tiên sự: Không; bị bắt ngày 22/6/2018; có mặt.
Bị cáo bị truy tố và xét xử về tội danh mà Bộ luật hình sự quy định phải có người bào chữa cho bị cáo, nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại giai đoạn sơ thẩm bị cáo đều từ chối người bào chữa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có 06 người bị hại, 09 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong thời gian từ tháng 4/2014 đến tháng 10/2017, lợi dụng nhiều người có nhu cầu xin việc làm nên Vương Thế H đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của họ bằng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin không có thật. H tự giới thiệu là người có chức vụ quyền hạn, hiện đang công tác tại các cơ quan nhà nước, có quan hệ quen biết với nhiều người có chức vụ quyền hạn, có khả năng xin được việc làm tại các cơ quan nhà nước, cũng như xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai để những người bị hại tin tưởng là thật đã đưa tiền cho H để nhờ xin việc cho con, em họ và xin giấy phép khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai rồi chiếm đoạt với tổng số tiền là 1.228.000.000đồng. Cụ thể như sau:
- Vụ thứ nhất: Chiếm đoạt của ông Trần Văn B số tiền 328.000.000 đồng.
Do có nhu cầu xin giấy phép khai thác cát tại tỉnh Gia Lai nên vào khoảng tháng 5/2014, ông Trần Văn B được anh Phạm Sỹ D giới thiệu là Vương Thế H có khả năng xin được giấy phép khai thác cát. Ngày 23/5/2014, ông B đi cùng D đến gặp H. Tại đây H giới thiệu là cán bộ công tác tại UBND tỉnh Gia Lai, có nhiều quan hệ, hứa sẽ xin được giấy phép khai thác cát cho ông B với chi phí là 70.000.000 đồng, thời hạn 21 ngày sẽ có giấy phép, ông B tin tưởng đồng ý. Sau đó, theo yêu cầu của H thì vào các ngày 25/5/2014, ngày 06/07/2014 và ngày 27/09/2014, ông B đã ba lần giao tiền cho H với tổng số tiền 85.000.000 đồng. Thời gian sau đó, H đưa ra nhiều lý do như tiền nộp thuế, tiền tiếp khách, tiền để cho người ký các loại giấy tờ và nhiều lý do khác để ông B tin tưởng và yêu cầu ông B tiếp tục giao tiền cho H. Nhưng qua một thời gian lâu, ông B vẫn không thấy H xin được giấy phép khai thác nên đã yêu cầu H trả lại tiền. Ngày 17/4/2017, H đến nhà ông B để cộng tổng số tiền mà ông B đã đưa cho H và thống nhất tổng cộng là 308.000.000 đồng. H đã viết một “Giấy vay tiền” đưa cho ông B giữ làm tin. Sau đó, H lập một bộ hồ sơ đấu thầu khai thác và nói với ồng B đã xin được giấy phép, yêu cầu ông B đưa thêm cho H 20.000.000 đồng để H làm thủ tục ủy quyền cho ông B. Ông B xem hồ sơ tưởng là thật nên ngày 22/10/2017, ông B đến nhà H để đưa tiền nhưng H không có nhà nên ông B đã đưa cho mẹ của H là bà Đỗ Thị T số tiền 20.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền bà T viết giấy nhận tiền đưa ông B giữ. (Khi H về bà T đã đưa lại số tiền này cho H). Sau đó, ông B không liên lạc được với H. Tổng số tiền H chiếm đoạt của ông B là 328.000.000 đồng.
- Vụ thứ hai: Chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị V số tiền 288.000.000 đồng.
Vào năm 2015, chị Hoàng Thị Lan H1 sinh năm 1997, đang học lớp 12 tại P, có quen biết với Vương Thế H. H giới thiệu với H1, H là cán bộ Sở Nội vụ tỉnh Gia Lai, có quan hệ quen biết, có khả năng xin cho người khác vào biên chế làm việc tại sân bay P, nếu H1 muốn, sau khi H1 tốt nghiệp phổ thông trung học H sẽ xin cho H1 vào biên chế làm việc tại sân bay P và sẽ được cử đi học. Sau khi học xong sẽ về làm việc tại sân bay P, với chi phí 260.000.000 đồng. Tin tưởng nên chị H1 về nói lại với mẹ là bà Nguyễn Thị V để nhờ H xin giúp. Tháng 7/2015, bà V cùng chị H1 đi đến nhờ H xin việc. Khi bà V đến nhờ, thì H hứa và cam kết như đã nói với H1, với chi phí là 260.000.000 đồng, đưa trước một nửa số tiền, khi có quyết định đi làm sẽ đưa hết, bà V đồng ý. Ngày 29/7/2015, H gọi điện thoại cho bà V yêu cầu chuyển tiền cho H, bà V đã chuyển 130.000.000 đồng vào tài khoản số 101010008130911 của H.
Ngày 31/7/2015, H tiếp tục gọi điện thoại yêu cầu bà V chuyển số tiền còn lại để nhận quyết định, bà V tưởng thật nên đã chuyển 130.000.000 đồng vào tài khoản của H. Sau khi nhận tiền của bà V, H đã đưa cho ông Ngô Xuân H2 số tiền 125.000.000 đồng để xin việc cho H1. Ông H2 nhận tiền của H rồi đưa cho Võ Thị Cẩm T sinh nhờ T xin cho H1 đi học tại Học viện Hàng không Tp. Hồ Chí Minh. Sau khi T đưa H1 đi vào Tp. Hồ Chí Minh học được một thời gian thì H liên lạc với bà V lấy lý do có khóa thực tập cho H1 với chi phí 28.000.000 đồng, nếu đồng ý thì chuyển tiền cho H. Bà V tin tưởng nên ngày 21/8/2015 tiếp tục chuyển cho H số tiền 28.000.000 đồng vào tài khoản. Tổng số tiền bà V đã chuyển cho H là 288.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền của bà V, H chỉ đưa cho ông Ngô Xuân H2 số tiền 125.000.000 đồng để nhờ xin việc, số tiền còn lại H chiếm đoạt tiêu xài hết. Sau 02 năm học chị H1 ra trường nhưng không xin vào làm việc tại sân bay P được, nên ngày 19/8/2018, bà V gửi đơn tố cáo Vương Thế H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Quá trình điều tra H khai đã đưa cho ông H2 số tiền 178.000.000 đồng, ngoài lời khai thì bị can không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh. Ông Ngô Xuân H2 khai chỉ nhận của H 125.000.000 đồng, khi nhận tiền, ông H2 có viết giấy nhận tiền đưa cho H giữ. Võ Thị Cẩm T cũng thừa nhận đã lừa nhận số tiền 125.000.000 đồng mà ông H2 đã đưa để xin việc cho Hoàng Thị Lan H1 rồi chiếm đoạt. Nhưng H là người trực tiếp chủ động lừa dối bà Nguyễn Thị V để nhận của bà V 288.000.000 đồng, bà V không biết ông H2 và T. Do đó, buộc H phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền đã nhận của bà V. Hiện nay H chưa khắc phục số tiền đã chiếm đoạt của bà V.
- Vụ thứ ba: Chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị Kim N số tiền 75.000.000 đồng.
Do có quen biết với Vương Thế H và được H cho biết hiện Cảng hàng không P đang thiếu 01 biên chế kế toán, H có mối quan hệ quen biết, có khả năng xin được cho người khác vào làm kế toán Cảng hàng không P nên chị Nguyễn Thị Kim N đã nhờ H xin cho em gái tên Nguyễn Thị Bích N1 đã tốt nghiệp Đại học nhưng chưa có việc làm vào làm kế toán Cảng hàng không P. H đồng ý và nói chi phí xin việc là 400.000.000 đồng, đưa trước 200.000.000 đồng, sau khi có quyết định đi làm sẽ đưa hết số tiền còn lại. Chị N tin tưởng và đồng ý. Ngày 06/10/2015, chị N đưa cho H số tiền 200.000.000 đồng và hồ sơ xin việc của chị N1. H nhận tiền và viết “giấy biên nhận” đưa cho chị N giữ và hẹn đến ngày 30/10/2015 chị N1 sẽ có quyết định đi làm. Sau khi nhận tiền, H không xin việc cho chị N1 mà chiếm đoạt số tiền trên. Đến hẹn nhưng không thấy có quyết định cho chị N1 đi làm, chị N hỏi thì H hứa hẹn nhiều lần, nghi ngờ H lừa đảo nên chị N đòi lại tiền thì H đã trả nhiều lần được 125.000.000 đồng, số tiền còn lại 75.000.000 đồng H chiếm đoạt không trả.
- Vụ thứ tư: Chiếm đoạt của ông Lê Văn H số tiền 122.000.000 đồng.
Do được bà Nguyễn Thị V là người quen giới thiệu, nên ông Lê Văn H đã nhờ Vương Thê H xin việc cho con trai là Lê Văn H2, sinh năm 1992, tốt nghiệp Đại học Thể dục Thể thao chưa có việc làm. Ngày 16/01/2016, ông Lê Văn H đi cùng bà V đến gặp Vương Thế H tại quán cà phê trên đường N, TP P. Tại đây, Vương Thế H giới thiệu là cán bộ Sở Nội vụ tỉnh Gia Lai, có nhiều mối quan hệ quen biết, hứa hẹn sẽ xin cho con trai ông H vào làm việc tại Sở Thể dục Thể thao tỉnh Gia Lai với chi phí xin việc là 250.000.000 đồng, đưa trước một nửa số tiền, thời hạn từ 01 đến 03 tháng có quyết định đi làm sẽ đưa hết số tiền còn lại. Ông Lê Văn H tin tưởng và đồng ý. Ngày 23/01/2016, ông Lê Văn H cùng anh H2 đến gặp Vương Thế H giao số tiền 80.000.000 đồng, H nhận và viết “giấy mượn tiền”. Ngày 11/3/2016, Vương Thế H tiếp tục yêu cầu ông Lê Văn H đưa thêm 70.000.000 đồng, hẹn đến cuối tháng 3/2016 sẽ có quyết định cho anh H2 đi làm. Do tin tưởng nên ông Lê Văn H cùng anh H2 tiếp tục đến giao cho Vương Thế H 70.000.000 đồng, nhận tiền xong H viết “Giấy vay tiền”. Đến ngày 05/4/2016, H yêu cầu ông Lê Văn H đưa thêm cho H 50.000.000 đồng để xin ký quyết định cho anh H2 đi làm. Ông Lê Văn H tin là thật nên đã đưa tiền cho anh H2 để giao cho Vương Thế H. Anh H2 lấy tiền rồi đi cùng anh Trần Văn Chiến là con rể ông Lê Văn H đi giao tiền cho Vương Thế H. Vương Thế H nhận tiền xong viết “Giấy vay tiền” đưa cho H2. Ngày 15/4/2016, Vương Thể H tiếp tục yêu cầu ông Lê Văn H đưa thêm 20.000.000 đồng để Vương Thế H hoàn tất hồ sơ thủ tục cho anh H2 đi làm. Ông Lê Văn H tưởng thật nên đã giao cho anh H2 20.000.000 đồng để đưa cho Vương Thế H. Tổng số tiền ông Lê Văn H đã giao cho Vương Thế H là 220.000.000 đồng. Khi đến hẹn, ông Lê Văn H hỏi Vương Thế H quyết định cho H2 đi làm thì Vương Thế H nói không xin được vào Sở Thể dục Thể thao nữa mà sẽ xin cho anh H2 vào làm tại Trung tâm huấn luyện Thể dục Thể thao tỉnh Gia Lai và yêu cầu ông Lê Văn H đưa thêm 30.000.000 đồng. Ông Lê Văn H không đồng ý và yêu cầu Vương Thế H phải đưa quyết định đi làm thì ông Lê Văn H mới giao tiền. Chờ lâu không thấy Vương Thế H giao quyết định nên ông Lê Văn H đã tìm Vương Thế H đòi lại tiền thì Vương Thế H đã trả lại được số tiền 98.000.000 đồng, số tiền còn lại 122.000.000 đồng, H chiếm đoạt không trả.
- Vụ thứ năm: Chiếm đoạt của vợ chồng ông Nguyễn Hoài V và bà Ngô Thị Hồng T số tiền 310.000.000 đồng.
Do được bà Nguyễn Thị V giới thiệu nên tháng 3/2016, ông Nguyễn Hoài V và con gái tên Nguyễn Hồng T V1 mang bộ hồ sơ xin việc làm đến gặp Vương Thế H nhờ xin việc cho V1. Khi gặp H, H giới thiệu là cán bộ Sở Nội vụ tỉnh Gia Lai, có nhiều mối quan hệ quen biết, hứa hẹn sẽ xin cho chị V1 vào làm kế toán tại Cảng hàng không P với chi phí xin việc là 360.000.000 đồng. Sau khi nghe H giới thiệu và hứa hẹn thì ông V tin tưởng và đồng ý. Lúc này chị V1 giao bộ hồ sơ xin việc làm cho H. Đến ngày 15/3/2016, H nói đưa trước cho H 260.000.000 đồng để làm thủ tục xin việc cho V1, nếu không sẽ có người khác xin mất. Nghe vậy, bà Ngô Thị Hồng T vợ ông V đã trực tiếp mang số tiền 260.000.000 đồng giao cho H, sau khi nhận tiền, H viết “Giấy vay tiền” đưa cho bà T giữ. Đến ngày 21/03/2016, H tiếp tục yêu cầu đưa 50.000.000 đồng để nhận quyết định đi làm cho chị V1. Theo hướng dẫn của H thì ông V đã chuyển 50.000.000 đồng vào tài khoản số 0291000105118 thuộc Ngân hàng TMCP V Chi nhánh Gia Lai của anh Mè Văn T là bạn của H. Sau khi ông V chuyển tiền, H nhờ anh T rút tiền giao cho H, anh T không biết đây là tiền H nhận để xin việc làm. Tổng cộng vợ chồng ông V, bà T đã giao cho H số tiền 310.000.000 đồng.
H nhận tiền của ông V, bà T nhưng không xin việc cho chị V1 như đã hứa hẹn mà đã sử dụng tiêu xài hết, không trả lại tiền cho ông V, bà T.
- Vụ thứ sáu: Chiếm đoạt của bà Trần Thị C số tiền 105.000.000 đồng.
Vào tháng 4/2017, do có quan hệ họ hàng quen biết, H giới thiệu với chị Nguyễn Thị Khánh Đ là H hiện đang công tác tại Tỉnh ủy Gia Lai, đang tăng cường làm Phó Chủ tịch UBND huyện Đ. H có nhiều mối quan hệ quen biết, có khả năng xin tuyển vào biên chế nhà nước. Hiện nay huyện C đang thiếu 02 biên chế giáo viên, nếu biết ai có nhu cầu giới thiệu cho H. Sau đó chị Đ nói lại với chị gái của mình là chị Nguyễn Thị Lan Đ. Nghe vậy, chị Đ giới thiệu cho bà Trần Thị C để liên lạc với H xin cho con trai bà C tên là Nguyễn Huy B hiện đang làm giáo viên hợp đồng. Sau khi được chị Đ giới thiệu, bà C hẹn gặp H để bàn thống nhất. Đến khoảng 14 giờ, ngày 04/4/2017, bà C cùng Nguyễn Huy B và ông Nguyễn Văn C (là người quen được B nhờ đi cùng để chứng kiến) đến gặp H. Tại đây H giới thiệu hiện là Phó Chủ tịch UBND huyện Đ, tỉnh Gia Lai và cam kết sẽ xin được cho B vào biên chế giáo viên tại huyện C, tỉnh Gia Lai với chi phí là 160.000.000 đồng, đưa trước l00.000.000 đồng, một tháng sau sẽ có quyết định đi làm và đưa số tiền còn lại. Bà C tin tưởng và đồng ý, đưa trước cho H số tiền 50.000.000 đồng và hồ sơ xin việc của anh B. H nhận tiền rồi viết giấy vay tiền, đưa cho bà C giữ. Đến ngày 05/04/2017, bà C tiếp tục đưa cho anh B số tiền 50.000.000 đồng để giao cho H, B rủ thêm ông C đi cùng để làm chứng và hẹn H đến nhà bà Nguyễn Thị Khánh Đ để giao nhận tiền. Sau khi giao nhận tiền, hai bên thống nhất viết, ký giấy giao nhận tiền gộp chung hai lần giao nhận tiền (vào ngày 04/04/2017 và ngày 05/04/2017) thành một giấy vay số tiền 100.000.000 đồng, đưa giấy cho anh B giữ. Đến ngày 08/05/2017, H gọi điện thoại cho bà C yêu cầu đưa thêm 30.000.000 đồng để H đi ký và nhận quyết định chuyển biên chế cho B. Để bà C và anh B tin tưởng, H hẹn đến khu vực trước Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai để giao tiền. Khoảng 14 giờ cùng ngày, anh B đến trước Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai giao cho H 30.000.000 đồng. Nhận tiền xong H hẹn anh B đứng ngoài chờ để lấy quyết định, rồi H đi vào khu vực trụ sở làm việc của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai, một lúc sau đi ra nói dối hiện đang có nhiều người làm việc, chưa ký quyết định được nên nói anh B đi về, chờ lấy Quyết định sau. Nhưng sau đó, anh B và bà C liên lạc hỏi thì H cứ hứa hẹn và lẩn tránh. Sau nhiều lần bà C đòi tiền thì H đã trả cho bà C được 25.000.000 đồng, số tiền còn lại 105.000.000 đồng H chiếm đoạt không trả. Ngày 09/06/2017, anh B cùng bà C gửi đơn tố cáo Vương Thế H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi bị tố cáo, H đã trả lại cho bà C số tiền 105.000.000 đồng.
Qua giám định chữ viết, chữ ký trên các giấy vay mượn tiền do các bị hại cung cấp, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận là chữ viết, chữ ký mang tên Vương Thế H trên các tài liệu cần giám định so với chữ viết, chữ ký của Vương Thế H trên các tài liệu mẫu so sánh do cùng một người viết ra, ký ra.
Qua xác minh tại các cơ quan tổ chức mà Vương Thế H đã hứa hẹn nhận tiền và hồ sơ để xin việc cho con em các bị hại làm việc, và cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác khoáng sản (khai thác cát), kết quả các cơ quan tổ chức này không có tiếp nhận hồ sơ nào mang tên Trần Văn B, Nguyễn Huy B, Hoàng Thị Lan H1, Nguyễn Thị Bích N1, Lê Văn H2, Nguyễn Hồng T V1 do Vương Thế H gửi đến để xin việc, xin cấp giấy phép khai thác cát.
Như vậy, bằng thủ đoạn gian dối nói là sẽ xin được việc làm, xin giấy phép khai thác khoáng sản cho người khác, Vương Thế H đã làm cho ông Trần Văn B, Lê Văn H, bà Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Kim N, bà Trần Thị C, Vợ chồng ông Nguyễn Hoài V và bà Ngô Thị Hồng T tin là thật nên đã giao tiền và hồ sơ để xin việc làm cho con, em (tổng cộng là 05 trường hợp) và xin cấp giấy phép khai thác cát cho ông Trần Văn B, với tổng số tiền là 1.228.000.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HS-ST ngày 22/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Vương Thế H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Vương Thế H 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2018.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí, quy định về thi hành án theo quy định của pháp luật và quyền kháng cáo.
Ngày 23/10/2019, bị cáo Vương Thế H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quan điểm bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình là trái pháp luật nên có thái độ ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn, có tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả do bị cáo gây ra nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử giải thích về người bào chữa cho bị cáo, sau khi nghe giải thích bị cáo Vương Thế H vẫn tiếp tục từ chối luật sư nên Hội đồng xét xử tiến hành giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Vương Thế H thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời trình bày của những người bị hại, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để xác định vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo đã có hành vi đưa ra thông tin gian dối, sai sự thật, tự xưng là cán bộ Sở nội vụ tỉnh Gia Lai; là Phó Chủ tịch UBND huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có quan hệ xã hội rộng, có khả năng xin cho người khác vào làm việc tại Cảng hàng không P; Sở Thể dục Thể thao tỉnh Gia Lai; Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Gia Lai; xin được giấy phép khai thác khoáng sản nhằm chiếm đoạt của các bị hại là ông Trần Văn B, ông Lê Văn H, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị Kim N, bà Trần Thị C; ông Nguyễn H2 V và bà Nguyễn Thị Hồng T với tổng số tiền 1.228.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu tài của công dân sản được Nhà nước bảo vệ. Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử bị cáo Vương Thế H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội danh.
[3] Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo Vương Thế H cung cấp các tài liệu thể hiện giữa bị cáo và ông Ngô Xuân H2 có quan hệ vay mượn tiền lẫn nhau, trong đó có việc ông H2 nhận tiền của bị cáo để lo xin việc cho Hoàng Thị Lan H1, Nguyễn Ngọc Dung và của Nguyễn Thị Bích N1. Tuy nhiên, quá trình điều tra bị cáo Vương Thế H thừa nhận những người bị hại không biết ông Ngô Xuân H2 là ai, những người bị hại đều xác định chỉ có bị cáo là người nhận tiền rồi trực tiếp chiếm đoạt, do đó Hội đồng xét xử xét thấy thời điểm bị cáo đưa ra thông tin gian dối, sai sự thật để các bị hại tin tưởng giao tài sản cho bị cáo chiếm đoạt là đã cấu thành tội: “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật hình sự, nên giao dịch giữa bị cáo với ông Ngô Xuân H2 là quan hệ pháp luật khác, nếu có tranh chấp, bị cáo có quyền khởi kiện vụ án để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.
[4]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của 06 ngư ời bị hại với tổng số tiền rất lớn 1.228.000.000 đồng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an địa phương. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân; bị cáo thuộc trường hợp có tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại; bị cáo có mẹ là người có công với Cách mạng; người bị hại Trần Thị C xin giảm hình phạt cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải, xác định rõ bị cáo có ý thức lừa đảo để chiếm đoạt tài sản người khác chứ không phải là những giao dịch dân sự với những người bị hại như lời khai trước đây, đã tác động gia đình bồi thường một phần hậu quả mà bị cáo gây ra cho những người bị hại, do đó Hội đồng xét xử xét thấy cấp sơ thẩm quyết định xử phạt bị cáo 14 tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có phần nghiêm khắc, do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo an tâm cải tạo tốt, sớm trở về hòa nhập cộng đồng.
[5]. Do được chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo Vương Thế H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
xXử:
Căn cứ vào Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vương Thế H. Sửa Bản án sơ thẩm. T Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Vương Thế H: 10 ( Mười) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm tạm giam 22/06/2018.
2. Bị cáo Vương Thế H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2019/HSST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án 135/2020/HS-PT ngày 28/05/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 135/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về